Thứ Hai, 3 tháng 8, 2020

VĂN HỌC ĐỀ TÀI CÔNG NHÂN VÀ NGƯỜI LAO ĐỘNG HẢI PHÒNG HIỆN NAY VÀ GIẢI PHÁP



Hải Phòng, mảnh đất của thợ thuyền. Những con người nơi đây lam lũ, oằn mình qua giông bão và khổ đau. Đó là lớp nhân vật đáng trân trọng trên những trang văn Nguyên Hồng, nhà văn của những người cùng khổ. Hải Phòng hơn một thế kỉ qua là đô thị công nghiệp, với tiếng còi tầu rền vang trên dòng sông Cấm, với nhà máy xi măng ống khói vươn cao khát vọng, với những nhà máy cơ khí đi đầu trong công cuộc xây dựng đất nước như đóng dầu Bạch Đằng, cơ khí Duyên Hải... Con người Hải Phòng thì quả cảm, phóng khoáng nhưng cũng kiên gan những năm khói lửa chiến tranh. Những ai từng một lần qua Hải Phòng, đều có tâm trạng giống như tâm trạng của nhà thơ Nguyễn Đình Thi qua bài thơ “Nhớ”:
“Hải Phòng ơi đêm nay bỗng nhớ
Tiếng còi tầu sông Cấm chiều hôm”
Thi sĩ Lưu Quang Vũ, sau những năm tháng sống và gắn bó với Hải Phòng, đã vẽ lên bức tranh bằng thơ u buồn mà tuyệt đẹp về thành phố cảng bụi bặm của những người công nhân khuân vác, những thủy thủ tầu viễn dương yêu lao động cuồng nhiệt mê say trong bài thơ “Những người bạn khuân vác”. Ở trường ca Những người trên cửa biển nhà thơ kiêm nhạc sĩ đa tài Văn Cao cho người đọc thấy được cuộc sống của những người thợ thành phố Cảng khó nhọc với những câu thơ hay đến nao lòng.
“Mỗi người dân Hải Phòng thật kiếm ăn từ nhỏ
Mỗi người dân Hải Phòng đều biết đổ mồ hôi”
Lại nói về Nguyên Hồng, ông không chỉ có tác phẩm về người lao động Hải Phòng cho riêng mình mà ông còn là người thầy truyền thụ niềm đam mê và kiến thức nghề văn cho những nhà văn Hải Phòng xuất thân từ người thợ như Thanh Tùng, Đào Cảng, Trần Lưu, Thi Hoàng, Nguyễn Tùng Linh, Nguyễn Thụy Kha, Vũ Hữu Ái … Lớp nhà văn thời kì những năm khói lửa chiến tranh là những đại diện ưu tú không chỉ với văn học Hải Phòng mà còn là những người đặt viên gạch đầu tiên xây lên ngôi nhà của văn học đề tài công nhân và người lao động trên cả nước.
Trong bài thơ “Phố cửa biển”, Thanh Tùng có những câu thơ hừng hực chất thợ thuyền: Tôi bước lẫn những tấm lưng mồ hôi hầm hập/ Thấy mặn lòng, từng vết muối trắng vai ai
Bạn bè gọi Đào Cảng là “Nhà thơ của thợ”. Trong thơ ông hình ảnh những người thợ Việt Nam của một thời kì gian khổ nhưng đầy lạc quan vừa đánh giặc vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thơ của Thi Hoàng trầm tư trong cái nhìn đầy triết luận: Mũi con tầu tinh anh như con mắt / Từ cửa sông này nhìn suốt đại dương  (Nhịp sóng)
Truyện dài Những người mở đường của Vũ Hữu Ái bằng những câu chữ đầy chất thơ tràn lên từ cuộc sống trẻ trung, từ những cảnh lao động dưới mưa rừng mù mịt, ăn cháo trong đêm bàn chuyện tương lai. Rồi một Trần Lưu với những câu đầy chất thợ. Một Nguyễn Tùng Linh tạc hình ảnh người thợ bằng những câu thơ vâm váp.
Trong những ngày đánh Mĩ, mỗi câu thơ, đoạn văn của đội ngũ nhà văn Hải Phòng đã tạo dựng được chân dung một thành phố cửa biển sừng sững với những người công nhân vai sắt chân đồng làm việc hết mình, sống hết mình.
Sau 1975, Hải Phòng cùng cả nước trăn trở những ngày đầu bước vào thời kì xây dựng nền kinh tế. Văn học công nhân và người lao động Hải Phòng giai đoạn này có phần như chững lại. Lẽ tự nhiên bởi các nhà văn lớp chống Mĩ tuổi đã cao, nội lực giảm sút, chỉ còn nhà thơ Thi Hoàng vẫn giữ được phong độ với trường ca Gọi nhau qua vách núi – Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam và những tập thơ giá trị khác. Lớp nhà văn mới hình thành. Lưu Văn Khuê lăn lộn với thực tiễn cuộc sống, gần đây ông có những tiểu thuyết về đề tài lịch sử như Mạc Đăng Dung hay Đấu trường sông nước viết về nhà tư sản Bạch Thái Bưởi. Phạm Ngà với những trang thơ chau chuốt, nồng nàn hơi thở cuộc sống công nghiệp, “Không gian sôi mãi tiếng ve sôi”. Trần Tự thực sự là một “nhà văn công nhân”. Câu chữ của ông gắn chặt với lao động, với máy móc, xe cộ, búa đe … thông qua những tiểu thuyết Miền khơi, Biển trắng, Giữa hai chiều gió… Từ thực tiễn đời sống người thợ của mình, Lương Văn Chi, Đinh Quyền, Huy Liệu, Nguyễn Xuân Nghĩa, Nguyễn Mạnh Quý, Nguyễn Minh Dậu… dốc toàn tâm toàn lực lên những trang truyện ngắn về thân phận người lao động, cho ra đời những trang văn ngồn ngộn chi tiết đời thực của người công nhân thời kì xóa bỏ bao cấp, tiếp cận dần với cơ chế thị trường đầy khốc liệt.

KĨ THUẬT NÀO CHO GIÁO VIÊN


Những ngày gần đây, dư luận (cả chính thức và mạng xã hội) đang là những chiếc máy khoan làm việc hết công suất hòng bóc tách những vỉa tầng của ngành giáo dục. Từ việc lớn như thay sách giáo khoa cho phù hợp. Việc này dây dưa tới công nghệ giáo dục của giáo sư Hồ Ngọc Đại khiến cho mũi khoan chiều nào cũng gặp phải đá rắn, tóe lửa. Người này chứng minh học theo công nghệ là ưu việt, lập tức người khác thì cho rằng còn nhiều bất cập, gây khó cho học sinh. Rồi chuyện lớn nữa như những dự án hàng nghìn tỉ của ngành giáo dục không mang lại hiệu quả. Có không ít người tuyên bố dự án ấy chỉ hơn trăm tỉ sẽ chuyển biến được. Có thật không, tại sao bộ giáo dục lại không lên tiếng về việc này? Vụn vặt hơn là chuyện thu chi đầu năm học. Nhưng nhiều năm chuyện này trở thành tiêu điểm hot thì năm nay các “thợ mỏ” không đào bới được là bao. Chủ đề hot những ngày gần đây là chuyện ứng xử của giáo viên. Nào là cô giáo cho học sinh tát bạn “hội đồng”. Rồi cô giáo mầm non “treo cổ học sinh lên cửa sổ” (đó là status của một vài “thần phây”). Rồi vụ bắt thầy giáo đền quần cho nữ học sinh. Vv và vv… Mọi “tội lỗi” đều nhắm tới cái đích giáo viên. Các cấp quản lí ngành giáo dục xử lí thế nào trong những sự vụ này? Họ đang ngủ gật. Và rồi, họ bỗng nghe thấy đám “thợ mỏ” reo lên khi đào ra một vỉa đạo đức của người làm nghề giáo. “Chúng tôi đã yêu cầu nhà trường làm báo cáo, giải trình tường tận vụ việc gửi về phòng, gửi về địa phương. Chúng tôi sẽ tìm hiểu rõ ràng vụ việc”, họ giật mình quăng ra một văn bản in sẵn như vậy. Thế là họ vô can. Hậu quả, giáo viên làm giáo viên chịu. Người nhẹ thì đình chỉ dạy mươi ngày, người nặng thì trở thành tội phạm tới mức truy tố, cơ quan pháp luật vào cuộc điều tra. Các cấp quản lí còn phải lo tầm vĩ mô. Tức là tìm phương pháp dậy cho trẻ thành tài. Mọi kĩ thuật tích cực trong cách dạy học được phát kiến mới (hay dập khuôn nước ngoài) được triển khai. Ở Tiểu học nào là: Kĩ thuật nhóm đôi, kĩ thuật nhóm bốn, kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật XYZ …. được áp dụng. Và những bài giảng điện tử bắt buộc phải triển khai. Vậy những bộ phận cấu thành nên những kĩ thuật ấy có đồng bộ. Sĩ số một lớp quá đông, điều kiện vật chất thiếu thốn thì triển khai thế nào. Ví như, dạy giáo án điện tử mà máy tính, màn hình chiếu nhà trường không trang bị. Giáo viên phải làm gì? Huy động xã hội hóa bằng cách vận động đóng góp của phụ huynh. Phải dùng kĩ thuật “răn đe”. “Lớp khác có lớp mình không có, con cái học kém đừng trách” Phụ huynh hoảng, đóng ngay. Kĩ thuật thu của giáo viên phải giỏi không thì sẽ phạm phải tội lạm thu. Dính đến tài chính, tội to. Các cấp quản lí một năm đôi lần thanh tra. Kĩ thuật “chống chế” của giáo viên nào cũng giỏi nên xếp loại nhà trường chỉ có từ khá trở lên. Đẹp mặt cả đôi đường. Có trường hợp, trong giờ dạy mà đoàn thanh tra dự, cô giáo gọi học sinh trả lời câu hỏi. Học sinh trả lời, thưa cô không phải câu hỏi của em, em không trả lời được. Kĩ thuật “chống chế” của giáo viên này bị lỗi. Chuyện nhỏ, rút kinh nghiệm. Ngày trường tiểu học còn tổ chức thi học sinh giỏi các cấp, thường giải thưởng cao tập trung cố định vào một trường điểm (nhất là thi cấp quận). Trường khác muốn có giải thưởng thì giáo viên phải có kĩ thuật “tình báo”. Tức là bằng mọi nghiệp vụ, điều tra nhóm học sinh giỏi trường ấy học gì thì cho học sinh trường mình học theo. Hiệu quả tức thì. Còn nhiều kĩ thuật khác nữa, khoan đào cả ngày không hết. Những ngày này, giáo viên sợ phụ huynh học sinh như sợ cọp. Một trường hợp có thật. Hôm ấy, không phải ngày học, một học sinh nhà gần trường vào sân trường nô nghịch. Học sinh này có hành động quá hỗn hào với một vị phụ huynh vào trường đón con. Vị phụ huynh không kiềm chế được đã đánh học sinh này. Bảo vệ trường gọi điện cho cô chủ nhiệm và mẹ em học sinh. Cô chủ nhiệm mặc dù nhà xa nhưng cũng đến kịp thời đưa học sinh này đi bệnh viện. Trong khi đó, mẹ của em học sinh ở cách trường không xa nhưng vào tới bệnh viện thì bác sĩ đã sơ cứu xong. Em học sinh chỉ bị xây xước nhẹ nên được về nhà ngay, hôm sau vẫn đi học. Và cô giáo cùng ban giám hiệu cho rằng sự việc đã xong. Không xong. Hôm sau em học sinh nghỉ học không xin phép và mẹ em gọi điện cho ban giám hiệu trách mắng cô giáo chủ nhiệm và nhà trường vô trách nhiệm với học sinh và nhà trường đã để người ngoài vào trong trường đánh học sinh. Phụ huynh này đe, làm đơn tố cáo với cấp trên. Ngay lập tức nhà trường huy động tất cả các ban ngành đoàn thể đến hỏi thăm sức khỏe học sinh và xin lỗi gia đình. Cuối cùng trong buổi họp hội đồng các thầy cô thở dài nhẹ người, may quá nhà ấy chỉ dọa. Bây giờ, không ít các thầy cô ra kế sách, kệ chúng nó (học sinh) muốn làm gì thì làm, thành người hay không cũng chẳng liên quan gì tới mình. Kế sách này mà thực thi rộng rãi thì ít năm nữa lớp trẻ bây giờ sẽ trưởng thành ra sao, ngành giáo dục có nghĩ tới. Dạy học, việc quan trọng nhất là dạy làm người. Tiêu chí ngành giáo dục đề ra là vậy. Nhưng thực hiện đến đâu? Đã có cuộc thi đánh giá mức độ truyền thụ của giáo viên và mức độ tiếp thu của học sinh về kiến thức làm người chưa? Những sự vụ trong những ngày qua lỗi tại đâu? Tại sao không có một buổi hội thảo tìm cho phải lẽ.

Thứ Năm, 30 tháng 4, 2020

MỘ ĐÁ NGANG LƯNG TRỜI –SỰ KHỐC LIỆT KHÔNG DỪNG NƠI CHIẾN TUYẾN



Đặng Thị Thúy

Mộ đá ngang lưng trờilà cuốn tiểu thuyết xuất bản năm 2018 của Nhà văn Nguyễn Quốc Hùng. Cuốn sách được viết lên bằng chính ký ức của anh và đồng đội– những người đã “từng có hơn ba năm nằm hầm, nằm hang, chốt giữ đường biên giới với nhau”, cùng kề vai sát cánh bên nhau để chiến đấu chống quân xâm lược, giữ vững sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia trong cuộc chiến tranh biên giới tại mặt trận Vị Xuyên – Hà Giang hơn ba mươi năm trước.
Câu chuyệnđược mở đầu bằng chi tiết thực tại, khi tác giả thoáng bắt gặp bóng dáng người bạn chiến đấu,thoắt hiện ra rồi lại thoắt mất hút trên hè phố nườm nượp người lại qua. Hỏi thăm để tìm thì không ai biết. Không biết bởi giữa bao bộn bề hối hả của cuộc mưu sinh này, chẳng ai có thời gian để mà quan tâm đến một kẻ “trông như thằng nghiện”, dẫu có biện  minh rằng anh ta là  “lính chiến” thì cũng chẳng ai tin,bởi giữa thời bình này, tuổi trẻ như thế ấy thì biết gì đến chiến tranh với chiến đấu mà gọi là lính chiến. Cái chi tiết tìm người bạn chiến đấu (người mà sau này được đặt tên là Hoàng “dở” trong truyện) đã làm cho người đọc bị kích thích trí tò mò ngay từ những dòng chữ đầu tiên. Và phải đến tận khi đọc hết toàn bộ cuốn sách rồi, người ta mới hiểu rằng, đó hoặc là chi tiết không có thật, hoặc là do tác giả bị ám ảnh quá sâu sắc từ ký ức khốc liệt của cuộc chiến mà “nhìn gà hóa cuốc”.
Toàn bộ câu chuyện là sự hồi tưởng. Sự hồi tưởng bắt đầu bằng tiếng nổ, tiếp diễn bằng tiếng nổ và kết thúc cũng bằng tiếng nổ. Đầu tiên là loạt tiếng nổ chát chúa, dồn dập vang lên giữa đêm tối mịt mùng khi chuyến xe tải quân chưa lên tới làng Ping. Bất ngờ đến nỗi Huy còn không kịp nhận biết nó là tiếng gì, nó phát ra từ đâu. Nhưng Huy biết chắc rằng chúng không phải là tiếng sấm rền của một trận bão biển, sự rung chuyển không phải là những lắc lư chao đảo giữa các đợt sóng lừng mà anh từng trải qua trong những tháng ngày đi tàu vượt đai dương. Từng loạt “tiếng nổ trồi từ dưới lòng đất lên” cùng sự rung chuyển và đá bay rào rào mãi mới khiến Huy kịp hiểu:đây là chiến trường của một cuộc chiến thực sự. Những tiếng nổ dày đặc với tần suất, âm thanh khác nhau vang lên suốt chiều dài của câu chuyện và theo diễn tiến của các trận đánh. Ròng rã ngày qua ngày, đêm nối đêm cùng đồng đội quần thảo với giặc trên các điểm cao, Huy dần phân biệt tiếng nổ nào là của vũ khí nào, nó phát ra từ đâu. Quen và nhạy đến mức, cả khi xuất ngũ về nhà rồi, nghe tiếng nổ bất ngờ vang lên, Huy còn giật bắn, lao qua người bố và nhận biết ngay đó là bộc phá. Những tiếng nổ trở thành nỗi ám ảnh không chỉ đối với nhân vật trong truyện mà còn với cả người đọc. Bởi vì, cho đến tận cuối truyện, khi thời gian đã trôi qua đến mấy chục năm rồi, Huy vẫn còn bị ám ảnh mãi. Đấy là khi nghe tiếng nổ, không phải tiếng đạn pháo của trận chiến mà là tiếng nổ tưng bừng của pháo hoa mừng ngày lễ, thì thay vì nó mang đến cho Huy cảm giác hân hoan vui vẻ như bao người thì nó lại gợi nhớ trong anh ký ức về cuộc chiến. Nólàm cho anh khóc, càng cố kìm nén thì nén thì nước mắt càng trào ra. Và nó cũng khiến cho độc giả khi đọc đến đoạn đó cũng không khỏi cay mắt, nghẹn lòng.
Cuộc chiến được hồi tưởng trong câu chuyện chính là cuộc chiến vệ quốc trên chiến trường Hà Giangnhững năm 1979 – 1984. Ấy là một cuộc chiến cực kỳ khốc liệt. Sự khốc liệt được miêu tả một cách rõ nét qua từng trang viết. Nó cho ta thấy toàn cảnh của một chiến trường với tầng tầng lớp lớp đạn nã, pháo vây. Chiến trường là những vách đá cheo leo sắc nhọn và những trận chiến đấu ác liệt. Mục tiêu là giành lại các điểm cao. Loạt người này xông lên, pháo dập ngã xuống, loạt khác lại xông lên. Khốc liệt đến nỗi “Những thân hình của đồng đội bị quét đổ sập xuống. Một làn đạn như chiếc cưa phạt đổ những thân cây”, vì thế mà “đại đội được bổ sung mười tám lính Hải Phòng thì nay còn có bốn”. Vì thế mà “Ra đi một đại đội, trở về vẻn vẹn còn có hơn một tiểu đội”. Khốc liệt đến nỗi những bữa ăn tranh thủ cũng bị gián đoạn. Cả nỗi nhớ nhà, nhớ mẹ, nhớ người bạn gái yêu mà chưa kịp ngỏ lời cũng bị gián đoạn bởi những loạt đạn pháo liên hồi. Những nhớ nhung ấy cũng chỉ thoạt đến chớp nhoáng như để tìm sự cân bằng về tâm lý, để xua đi những ám ảnh về sự chết chóc đang bủa vây:người thì bị đạn xé toác lồng ngực, người thì thân xác bị đạn xé nát, người bị mảnh pháo phạt mất nửa mặt,có người hy sinh rồi mà đồng đội chỉ còn tìm thấy một cánh tay, và có cả những người, sau loạt đạn pháo thì không còn gì nữa. Máu chảy thấm xuống làm nhão cả đất. Sau những trận huyết chiến, những người lính sống sót tìm kiếm đồng đội đã hy sinh của mình, nhưng cả tuần “cũng chỉ mang về được một tử sỹ nguyên vẹn hình hài, còn đâu là mấy túi ni lông chẳng biết thi thể của ai”.Họ đành chôn chung những người đó vào một chỗ “Lính tráng với nhau cả, nằm chung hầm, chung hang, chung giường với nhau quen rồi”.Nếu có ai chưa từng nghe, chưa từng biết về những tháng ngày khốc liệt trên chiến trường Vị Xuyên năm ấy, thì câu chuyện này chính là mộtcuốn phim chân thực giúp họ hiểu, mường tượng về nó một cách cụ thể và rõ ràng. 

Thứ Bảy, 21 tháng 12, 2019

NHỌC NHẰN CÕNG CHỮ Đọc tập thơ: Địu chữ qua Cổng Trời của Hoài Khánh, NXB Kim Đồng – 2019






Văn học cho thiếu nhi từ xưa đến nay vẫn là một bộ phận không thể thiếu trong nền văn học của bất cứ quốc gia, dân tộc nào. Với trẻ em Việt Nam, những cái tên đã trở nên quen thuộcnhư Trần Đăng Khoa, Võ Quảng, Phạm Hổ …,đó là những nhà thơdành nhiều tâm huyết sáng tác cho lứa tuổi thiếu nhibằng những vần thơ ngộ nghĩnh, các định nghĩa về sự vật hiện tượng xung quanh đáng yêu. Trong dòng chảy văn học này còn không ít những nhà thơ khát vọng đến cháy lòng muốn làm bạn với trẻ thơ thông qua tác phẩm của mình như Phạm Đình Ân, Vũ Duy Chu, Thanh Hào … Và trong số đó, nhà thơ Hoài Khánh cần phải nhắc tới là một trong những cây bút kiên định con đường thơ dành cho thiếu nhi.Đến nay, anh đã là tác giả của 5 tập thơ: BÉ KIM GIÂY- Nhà xuất bản Hải Phòng năm 1991- TIA NẮNG XANH- Nhà xuất bản Hải Phòng năm 1996 - TRĂNG TREO GIỮA NHÀ - Nhà xuất bản Hội Nhà văn năm 2004 - DẮT BIỂN LÊN TRỜI - Nhà xuất bản Kim Đồng năm 2012, tái bản năm 2015 và mới nhất là tập thơ - ĐỊU CHỮ QUA CỔNG TRỜI - Nhà xuất bản Kim Đồng năm 2019 .
Với tập thơ DẮT BIỂN LÊN TRỜI thì thế giới trẻ thơ của Hoài Khánh là những bước nhẩy chân sáo trên con đường làng hay chung chiêng trên con sóng cùng dắt biển vào lớp học.
Từ làng chài vào lớp
Đường nằm trong khoang thuyền
Bầy trẻ thơ đi học
Ngồi trên sóng chơi vơi
               (Đường ở đảo)
Tới tập thơ ĐỊU CHỮ QUA CỔNG TRỜI đứa trẻ với dáng vẻ suy tư hơn. Nó ngồi chống tay vào cằm bên ô cửa đá và ngắm nhìn thế giới qua con mắt của mình. Nó ngắm nhìn đám bạn váy áo xập xòa/Gọi nhau địu chữ vượt qua cổng trời. Nó ngắm nhìnÔng mặt trời khó nhọc/ Đang leo dốc đằng xa, để rồi khám phá raVẫn có bao điều lạ / Từ sách hồng bước ra.Nhưng dù đứa trẻ ngắm nhìndưới hình thức nào thì thế giới qua mắt chúng vẫn là thế giới riêng dành chotrẻ thơ.
Như Tolstoi nói, văn chương cho trẻ em phải là ngày hội của các tư tưởng. Tư tưởng nhưng phải vui như hội. Với tập ĐỊU CHỮ QUA CỔNG TRỜI, nhà thơ dẫn các em nhỏ đi qua các khung trời cổ tích, thỏa thích ngắm nhìn, khám phá cảnh đẹp thiên nhiên và con người. Xuất phát từ miền địa đầu Tổ Quốc có con đường lên tới cổng trời, vùng đất có cao nguyên đá Đồng Văn hùng vĩ, bọn trẻ nhìn thấy Ai đến cổng trời mà xem/ Thăm thẳm chỗ nào cũng đánhưng ngướcnhìn lên những “Ông núi đá khù khì” bọn trẻ phát hiện raVầng trăng cao nguyên lạ quá/ Ngồi trên mỏm đá tai mèo.(Đêm phố cổ Đồng Văn), tớinhững bản Mường màđàn “trâu cõng chiều về bản” . Khi qua thác Bản Giốc bọn trẻ trầm tưgiữaBốn bề xanh tĩnh lặng / Thác đổ như ngựa lồng. Đi qua vùng núi Tam Đảocó “Cả ba ngọn núi/ Lụ khụ lì khì”Dưới con mắt của nhà thơ cũng là con mắt trẻ thơ, con suối, nương ngô, ngọn núi bỗng bất ngờ chuyển mình trở thành người bạn thân thương, gần gũi.
Suối thung tha thung thăng
Khiến nương ngô thao thức
Cụ núi chừng rạo rực
Nhẩm hát lời lá xanh
            (Trăng núi)

Thứ Hai, 11 tháng 11, 2019

MỘ ĐÁ NGANG LƯNG TRỜI – SỰ KHỐC LIỆT KHÔNG DỪNG NƠI CHIẾN TUYẾN - Đặng Thị Thúy



Mộ đá ngang lưng trời là cuốn tiểu thuyết xuất bản năm 2018 của Nhà văn Nguyễn Quốc Hùng. Cuốn sách được viết lên bằng chính ký ức của anh và đồng đội– những người đã “từng có hơn ba năm nằm hầm, nằm hang, chốt giữ đường biên giới với nhau”, cùng kề vai sát cánh bên nhau để chiến đấu chống quân xâm lược, giữ vững sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia trong cuộc chiến tranh biên giới tại mặt trận Vị Xuyên – Hà Giang hơn ba mươi năm trước.
Câu chuyệnđược mở đầu bằng chi tiết thực tại, khi tác giả thoáng bắt gặp bóng dáng người bạn chiến đấu,thoắt hiện ra rồi lại thoắt mất hút trên hè phố nườm nượp người lại qua. Hỏi thăm để tìm thì không ai biết. Không biết bởi giữa bao bộn bề hối hả của cuộc mưu sinh này, chẳng ai có thời gian để mà quan tâm đến một kẻ “trông như thằng nghiện”, dẫu có biện  minh rằng anh ta là  “lính chiến” thì cũng chẳng ai tin,bởi giữa thời bình này, tuổi trẻ như thế ấy thì biết gì đến chiến tranh với chiến đấu mà gọi là lính chiến. Cái chi tiết tìm người bạn chiến đấu (người mà sau này được đặt tên là Hoàng “dở” trong truyện) đã làm cho người đọc bị kích thích trí tò mò ngay từ những dòng chữ đầu tiên. Và phải đến tận khi đọc hết toàn bộ cuốn sách rồi, người ta mới hiểu rằng, đó hoặc là chi tiết không có thật, hoặc do tác giả bị ám ảnh quá sâu sắc từ ký ức khốc liệt của cuộc chiến mà “nhìn gà hóa cuốc”.
Toàn bộ câu chuyện là sự hồi tưởng. Sự hồi tưởng bắt đầu bằng tiếng nổ, tiếp diễn bằng tiếng nổ và kết thúc cũng bằng tiếng nổ. Đầu tiên là loạt tiếng nổ chát chúa, dồn dập vang lên giữa đêm tối mịt mùng khi chuyến xe tải quân chưa lên tới làng Ping. Bất ngờ đến nỗi Huy còn không kịp nhận biết nó là tiếng gì, nó phát ra từ đâu. Nhưng Huy biết chắc rằng chúng không phải là tiếng sấm rền của một trận bão biển, sự rung chuyển không phải là những lắc lư chao đảo giữa các đợt sóng lừng mà anh từng trải qua trong những tháng ngày đi tàu vượt đai dương. Từng loạt “tiếng nổ trồi từ dưới lòng đất lên” cùng sự rung chuyển và đá bay rào rào mãi mới khiến Huy kịp hiểu:đây là chiến trường của một cuộc chiến thực sự. Những tiếng nổ dày đặc với tần suất, âm thanh khác nhau vang lên suốt chiều dài của câu chuyện và theo diễn tiến của các trận đánh. Ròng rã ngày qua ngày, đêm nối đêm cùng đồng đội quần thảo với giặc trên các điểm cao, Huy dần phân biệt tiếng nổ nào là của vũ khí nào, nó phát ra từ đâu. Quen và nhạy đến mức, cả khi xuất ngũ về nhà rồi, nghe tiếng nổ bất ngờ vang lên, Huy còn giật bắn, lao qua người bố và nhận biết ngay đó là bộc phá. Những tiếng nổ trở thành nỗi ám ảnh không chỉ đối với nhân vật trong truyện mà còn với cả người đọc. Bởi vì, cho đến tận cuối truyện, khi thời gian đã trôi qua đến mấy chục năm rồi, Huy vẫn còn bị ám ảnh mãi. Đấy là khi nghe tiếng nổ, không phải tiếng đạn pháo của trận chiến mà là tiếng nổ tưng bừng của pháo hoa mừng ngày lễ, thì thay vì nó mang đến cho Huy cảm giác hân hoan vui vẻ như bao người thì nó lại gợi nhớ trong anh ký ức về cuộc chiến. Nólàm cho anh khóc, càng cố kìm nén thì nén thì nước mắt càng trào ra. Và nó cũng khiến cho độc giả khi đọc đến đoạn đó cũng không khỏi cay mắt, nghẹn lòng.
Cuộc chiến được hồi tưởng trong câu chuyện chính là cuộc chiến vệ quốc trên chiến trường Hà Giangnhững năm 1979 – 1984. Ấy là một cuộc chiến cực kỳ khốc liệt. Sự khốc liệt được miêu tả một cách rõ nét qua từng trang viết. Nó cho ta thấy toàn cảnh của một chiến trường với tầng tầng lớp lớp đạn nã, pháo vây. Chiến trường là những vách đá cheo leo sắc nhọn và những trận chiến đấu ác liệt. Mục tiêu là giành lại các điểm cao. Loạt người này xông lên, pháo dập ngã xuống, loạt khác lại xông lên. Khốc liệt đến nỗi “Những thân hình của đồng đội bị quét đổ sập xuống. Một làn đạn như chiếc cưa phạt đổ những thân cây”, vì thế mà “đại đội được bổ sung mười tám lính Hải Phòng thì nay còn có bốn”. Vì thế mà “Ra đi một đại đội, trở về vẻn vẹn còn có hơn một tiểu đội”. Khốc liệt đến nỗi những bữa ăn tranh thủ cũng bị gián đoạn. Cả nỗi nhớ nhà, nhớ mẹ, nhớ người bạn gái yêu mà chưa kịp ngỏ lời cũng bị gián đoạn bởi những loạt đạn pháo liên hồi. Những nhớ nhung ấy cũng chỉ thoạt đến chớp nhoáng như để tìm sự cân bằng về tâm lý, để xua đi những ám ảnh về sự chết chóc đang bủa vây:người thì bị đạn xé toác lồng ngực, người thì thân xác bị đạn xé nát, người bị mảnh pháo phạt mất nửa mặt,có người hy sinh rồi mà đồng đội chỉ còn tìm thấy một cánh tay, và có cả những người, sau loạt đạn pháo thì không còn gì nữa. Máu chảy thấm xuống làm nhão cả đất. Sau những trận huyết chiến, những người lính sống sót tìm kiếm đồng đội đã hy sinh của mình, nhưng cả tuần “cũng chỉ mang về được một tử sỹ nguyên vẹn hình hài, còn đâu là mấy túi ni lông chẳng biết thi thể của ai”.Họ đành chôn chung những người đó vào một chỗ “Lính tráng với nhau cả, nằm chung hầm, chung hang, chung giường với nhau quen rồi”.Nếu có ai chưa từng nghe, chưa từng biết về những tháng ngày khốc liệt trên chiến trường Vị Xuyên năm ấy, thì câu chuyện này chính là mộtcuốn phim chân thực giúp họ hiểu, mường tượng về nó một cách cụ thể và rõ ràng. 
Tôi thích cách miêu tả và khắc họa nhân vật của Nguyễn Quốc Hùng. Thông qua việc miêu tả nhân vật chủ yếu qua hành động, khai thác diễn biến tâm lý của nhân vật trong từng tình huống cụ thể và theo diễn tiến ác liệt của cuộc chiến, anh đã lần lượt để người đọc tiếp cận với các nhân vật và hiểu cuộc đời của họ một cách tự nhiên nhất. Hoàng “dở” là một người vốn có tiền sử bệnh tâm thần, tính nhát, sợ manhưng vẫn bị bố và cán bộ phường bắt phải đi nghĩa vụ quân sự. Lúc mới lên chiến trường, lúc nào cũng bám chặt Huy “như đứa trẻ sợ lạc mẹ khi đến một nơi xa lạ, nguy hiểm”. Thế rồi, những trận đánh khiến Hoàng dần khôn ngoan, nhanh nhẹn và biến anh thành một người lính anh dũng, can trường. May mắn trở về từ cuộc chiến, trước khi rời trận địa, Hoàng đã quỳ xuống vái tám mươi tư vái từ biệt những đồng đội cùng trung đoàn với mình, những người đã vĩnh viễn nằm lại nơi ấy.
Huy –nhân vật chính của truyện-  được tác giả khai thác và miêu tả qua diễn biến tâm lý rõ nét nhất. Huy cũng như những chàng trai Hải Phòng khác, nhập ngũ với mục đích là thực hiện nghĩa vụ quân sự của một thanh niên giữa thời bình, rèn luyện trong quân ngũ 3 năm rồi quay về tiếp tục làm thủy thủ hoặc làm công nhân. Nhưng sau thời gian huấn luyện, anh cùng mọi người mới biết là Hà Giang đang có biến và họ được lệnh điều động lên chiến tuyến. Đến lúc ấy, họ mới biết mình sắp trực tiếp tham gia vàonhững trận đánh ác liệt mà những chàng trai ra đi từ một thành phố đang yên bình không bao giờ ngờ tới. Huy sợ chiến tranh, ngay từ lúc biết tin này, Huy đã hoang mang, có ý định đào ngũ. Một người có thân thế như anh, có đào ngũ cũng không sao vì đã có người lo cho êm thấm. Nhưng Huy đã không quay lại. Lý do để anh không quay lại lúc đầu chỉ đơn giản bởi sỹ diện của một thằng đàn ông: “v bây giờ người ta cười cho”. Sau đó, anh thêm một lý dođể không quay lại làvì tò mò, vì muốn chứng kiến tận mắt cuộc chiến trên kia xem có giống như miêu tả trong tiểu thuyết. Nhưng càng tiến sâu vào trận địa, Huy càng bị cuốn vào từng trận đánh. Trực tiếp đối mặt với kẻ thù, đối mặt từng giây với cái chết cận kề, động lực thúc giục Huy chiến đấu chính là bản năng sinh tồn của con người “phải tiến để giành giật lấy sự sống còn. Quay lại là chết”. Rồi Huy chứng kiến sự lần lượt hy sinh của rất nhiều đồng đội, lúc này, điều khiến anh không cho phép mình quay lại chính là tình yêu thương, sự gắn bó và trách nhiệm với đồng đội của mình. Trải qua những cung bậc cảm xúc khác nhau: từ sợ hãi, đau đớn, phẫn nộ đến căm thù, để rồi cuối cùng, Huy xông lên chiến đấu quyết liệt, can trường với quân xâm lược bằng tất cả sức mạnh có được từ sự căm thù chúng, bằng danh dự của người lính và lòng yêu nước,tự tôn dân tộc của mình. “Mặt đối mặt với kẻ thù, chính là lúc ý thức dân tộc của con người phát tiết ra mạnh nhất”, đấy chính là sự lý giải của Huy trước hành động quyết tử của Cường:ôm bộc phá đặt tận nơi để phá tan lá cờ mà tên giặc quyết tử xông lên cắm trên vách đá, “lá cờ như một mũi dao nhuốm máu xiên vào bầu trời xám”. Và cũng chính ý thức dân tộc đã thôi thúcHuy và những đồng đội của mình chiến đấu anh dũng, “sẵn sàng hy sinh đến giọt máu cuối cùng với quyết tâm, một tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc cũng không thể để mất”. Huy đã cùng đồng đội của mình sống trọn với lời thề “sống bám đá, chết bám đá thành bất tử”. Có thể nói, tính cách và những diễn biến tâm lý của nhân vật Huy đã được tác giả xây dựng mang những nét đặc trưng tiêu biểu của những chàng trai Hải Phòng và những người lính của cuộc chiến tranh biên giới trong những năm tháng ấy.

Thứ Ba, 22 tháng 10, 2019

Báo Hải Phòng (26-7-2019) TÔI CỐ GẮNG ĐỂ CÓ NÉN NHANG THƠM TRI ÂN ĐỒNG ĐỘI




1- Được biết anh vừa trở về từ chuyến thăm chiến trường xưa và tri ân đồng đội tại mặt trận Vị Xuyên. Đây cũng là bối cảnh chính để anh sáng tác nên tiểu thuyết “Mộ đá ngang lưng trời”. Cảm xúc của anh giờ này như thế nào?
- Được trở lại thăm chiến trường xưa, được thắp một nén nhang trên mộ những đồng đội đã quy tập và những nén nhang lên khe đá cho những đồng đội còn nằm đâu đó trên các triền núi, khe sâu không chỉ riêng tôi mà với tất cả những ai quan tâm tới những người anh hùng đã ngã xuống vì sự toàn vẹn của Tổ Quốc bao giờ cũng xúc động. Trong ngày giỗ trận năm nay, những người lính Vị Xuyên năm xưa được nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và phu nhân về tham dự càng khiến chúng tôi xúc động hơn vì sự hy sinh của chúng tôi ngày càng được nhà nước quan tâm hơn.
2- Trong tiểu thuyết của mình, anh nhắc nhiều tới những đồng đội hy sinh trong cuộc chiến khốc liệt năm xưa. Điều đặc biệt, anh chính là một trong những người lính trực tiếp có mặt trên chiến trường đó. Anh có thể chia sẻ quá trình sáng tác “Mộ đá ngang lưng trời”?
- Trong tiểu thuyết “Mộ đá ngang lưng trời” tôi có giải thích vì sao, cuộc chiến đã kết thúc hơn ba mươi năm tôi mới viết được về chính mình, về những người đồng đội của tôi “Cuộc chiến tranh nào chẳng khốc liệt, chẳng bắn súng ném lựu đạn, chẳng gian khổ hy sinh. Viết cuộc chiến của mình không khéo người đọc lại nghĩ mình viết về đại chiến thế giới lần thứ hai.”
“Có thể từ chuyện bọn người đãi vàng này xây dựng nên một cốt truyện hấp dẫn, ma quái. Xu hướng văn chương bây giờ phần nhiều là thể hiện câu chuyện dưới những hình ảnh ma mị, quái đản hoặc về tâm linh, nhất là những cuốn viết về chiến tranh. Huy đã đọc những truyện như vậy viết về chính cuộc chiến Huy tham gia. Có hay, có hấp dẫn, có tính sáng tạo. Nhưng tác giả là người ngoài cuộc, còn Huy là người trực tiếp đổ xương đổ máu xuống mảnh đất biên cương này, thấy mình có tội nếu viết theo xu hướng ấy.”
Tôi đi tìm cái riêng của cuộc chiến tôi tham gia. Đó là, những người lính ngã xuống trong chiến tranh giải phóng dân tộc và cuộc chiến tranh thống nhất đất nước là vì lý tưởng cách mạng, còn chúng tôi, những người lính bảo vệ từng tấc đất biên cương của Tổ Quốc đã vì danh dự của dân tộc mà xông lên. Và thời gian cũng khiến cho cái “cô đơn” của người trải qua chiến trận thấm sâu hơn vào huyết quản của mình.

Thứ Năm, 15 tháng 8, 2019

TRỞ LẠI VỊ XUYÊN 2019




1- Được biết anh vừa trở về từ chuyến thăm chiến trường xưa và tri ân đồng đội tại mặt trận Vị Xuyên. Đây cũng là bối cảnh chính để anh sáng tác nên tiểu thuyết “Mộ đá ngang lưng trời”. Cảm xúc của anh giờ này như thế nào?
- Được trở lại thăm chiến trường xưa, được thắp một nén nhang trên mộ những đồng đội đã quy tập và những nén nhang lên khe đá cho những đồng đội còn nằm đâu đó trên các triền núi, khe sâu không chỉ riêng tôi mà với tất cả những ai quan tâm tới những người anh hùng đã ngã xuống vì sự toàn vẹn của Tổ Quốc bao giờ cũng xúc động. Trong ngày giỗ trận năm nay, những người lính Vị Xuyên năm xưa được nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và phu nhân về tham dự càng khiến chúng tôi xúc động hơn vì sự hy sinh của chúng tôi ngày càng được nhà nước quan tâm hơn.
2- Trong tiểu thuyết của mình, anh nhắc nhiều tới những đồng đội hy sinh trong cuộc chiến khốc liệt năm xưa. Điều đặc biệt, anh chính là một trong những người lính trực tiếp có mặt trên chiến trường đó. Anh có thể chia sẻ quá trình sáng tác “Mộ đá ngang lưng trời”?
- Trong tiểu thuyết “Mộ đá ngang lưng trời” tôi có giải thích vì sao, cuộc chiến đã kết thúc hơn ba mươi năm tôi mới viết được về chính mình, về những người đồng đội của tôi “Cuộc chiến tranh nào chẳng khốc liệt, chẳng bắn súng ném lựu đạn, chẳng gian khổ hy sinh. Viết cuộc chiến của mình không khéo người đọc lại nghĩ mình viết về đại chiến thế giới lần thứ hai.”
“Có thể từ chuyện bọn người đãi vàng này xây dựng nên một cốt truyện hấp dẫn, ma quái. Xu hướng văn chương bây giờ phần nhiều là thể hiện câu chuyện dưới những hình ảnh ma mị, quái đản hoặc về tâm linh, nhất là những cuốn viết về chiến tranh. Huy đã đọc những truyện như vậy viết về chính cuộc chiến Huy tham gia. Có hay, có hấp dẫn, có tính sáng tạo. Nhưng tác giả là người ngoài cuộc, còn Huy là người trực tiếp đổ xương đổ máu xuống mảnh đất biên cương này, thấy mình có tội nếu viết theo xu hướng ấy.”
Tôi đi tìm cái riêng của cuộc chiến tôi tham gia. Đó là, những người lính ngã xuống trong chiến tranh giải phóng dân tộc và cuộc chiến tranh thống nhất đất nước là vì lý tưởng cách mạng, còn chúng tôi, những người lính bảo vệ từng tấc đất biên cương của Tổ Quốc đã vì danh dự của dân tộc mà xông lên. Và thời gian cũng khiến cho cái “cô đơn” của người trải qua chiến trận thấm sâu hơn vào huyết quản của mình.
3- Không ít nhà văn chưa từng có mặt trong các cuộc chiến cũng lựa chọn đề tài về chiến tranh và những tuyến nhân vật là người lính, thương binh, liệt sĩ. Cảm nhận của anh về những sáng tác đó? Việc lựa chọn đề tài mà mình chưa trải qua kinh nghiệm có phải là lựa chọn khó khăn với những nhà văn?
- Khó khăn hay không là do tâm huyết của nhà văn với đề tài mình theo đuổi. Tác phẩm có hay hay không là do tài năng của nhà văn. Ví dụ, Nguyễn Danh Dũng là một tác giả còn trẻ, chưa từng tham gia quân đội nhưng với truyện ngắn “Bóng anh hùng” viết về đề tài người lính khiến tôi xúc động. Với tiểu thuyết “Mộ đá ngang lưng trời” của tôi, bạn đọc đánh giá như thế nào tôi cũng không làm cuộc khảo sát để tìm hiểu, chỉ biết rằng mình đã làm hết sức có thể để có một nén nhang thơm thắp cho đồng đội mình. Với những người trong cuộc, những người trực tiếp tham gia Mặt trận Vị Xuyên năm xưa đã vui mừng đón nhận tiểu thuyết và coi tôi như là một người đại diện nói hộ tấm lòng của họ. Có một vài cuộc tranh luận sôi nổi, vị trí ấy trong tiểu thuyết là ở chỗ này, chỗ kia, nhân vật này là ai. Có người làm ban thờ quãng đời lính của mình và trang trọng đặt cuốn tiểu thuyết của tôi trên đó xem như có linh hồn đồng đội mình.
4- Còn với những sáng tác về người lính, thương binh – liệt sĩ của các nhà văn Hải Phòng thì sao? Theo như chúng tôi được biết, có những nhà văn, nhà thơ Hải Phòng vẫn cần mẫn khai thác đề tài về người lính, về các cuộc kháng chiến. Anh có cảm nhận gì về những sáng tác ấy?
- Tác phẩm thực sự viết về người lính, thương binh – liệt sĩ của các nhà văn Hải Phòng ở thời điểm hiện tại không nhiều. Nhà văn Hoàng Thiềng cũng đã từng là người lính trải qua chiến tranh và ông cũng đã có một vài tác phẩm về đề tài này.
5- Nhiều người nhận định rằng, mảng đề tài về thương binh, liệt sĩ và những cựu chiến binh không chỉ khó thể hiện mà không còn gần gũi với bạn đọc trong giai đoạn hiện nay. Ý kiến cá nhân anh với vai trò một người cầm bút? Người sáng tác, nhất là những cây bút trẻ có nên lựa chọn đề tài này?
- Với cá nhân tôi, một người đã biết thế nào là khốc liệt của chiến tranh, biết thế nào là tình cảm sâu nặng của người lính may mắn thoát được lưỡi hái tử thần cũng rất mong lớp trẻ hiểu mình, đồng cảm với mình, cùng nói hộ mình bằng các tác phẩm văn học như nhà văn Nguyễn Bình Phương, nhà văn Nguyễn Đình Tú và Nguyễn Danh Dũng. Nhưng để có nhiều tác giả hơn nữa quan tâm tới đề tài này là một sự vượt khó vô cùng của cả xã hội chứ không riêng gì một mình Hội Nhà văn có thể làm được.
6- Nếu để đưa ra lời khuyên với công chúng yêu văn học, riêng với những sáng tác về thương binh, liệt sĩ và người lính, anh sẽ nói gì?
- Những tác phẩm viết về người lính qua các thời kỳ chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, công chúng đã rất quan tâm đón đọc và đánh giá cao những tác thời kì ấy như tiểu thuyết “Xung kích” của Nguyễn Đình Thi, tiểu thuyết “Dấu chân người lính” của Nguyễn Minh Châu …. Còn hiện nay, không chỉ có tác phẩm viết về người lính mà cả những đề tài khác nữa, lượng người đọc không nhiều, công chúng cũng không còn quan tâm tới văn học như trước đây. Tiên trách kỉ, hậu trách nhân, có lẽ những nhà văn của chúng ta chưa có tác phẩm hay và công tác quảng bá văn học chưa được quan tâm như các loại hình nghệ thuật khác.


Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2019

SÔNG LÔ THÁNG BẨY (Tản văn)



Năm nào cũng thế, vào dịp tháng bẩy, bên cạnh dòng sông Lô có thêm một “dòng sông” mang sắc xanh áo lính chảy ngược lại từ dưới xuôi lên phía Hà Giang. Đó là “dòng sông” tạo bởi những cựu chiến binh đã tham gia mặt trận Vị Xuyên những năm 1984 – 1989 cùng nhau trở về miền kí ức, trở về thắp một nén nhang cho đồng đội, những người ngã xuống giữ gìn từng tấc đất thiêng liêng của Tổ Quốc.
Sông Lô bây giờ không cuồn cuộn sắc đỏ phù sa như những năm tôi là người chiến sĩ giữ chốt nơi đây. Ngày ấy, đằm mình dưới dòng Lô lên là cả thân mình đỏ rực, lấp lánh hạt phù sa phản chiếu ánh mặt trời. Sông Lô bây giờ không mênh mông, chiều sâu không bí hiểm giống như hơn ba mươi năm trước. Một vài nhà hàng bên bờ sông bây giờ đang nằm trên dòng chảy ngày xưa.
Bên bờ sông Lô bây giờ không còn hàng cây gạo thẳng tắp, trang nghiêm như người lính đứng canh cho những ngôi mộ liệt sĩ trên những triền đồi được bình yên trong tiếng pháo ì ầm vọng về từ hướng đường biên.
Đâu rồi hiệu sách nhân dân ngày xưa, nơi tôi thường xuyên lui tới trong những ngày ở cứ, ngay đầu ngã tư Nguyễn Trãi – Trần Hưng Đạo, điểm đầu của con đường lên chốt. Lần nào ở hiệu sách ra, tôi cũng tới đứng trên cầu Yên Biên nhìn hàng tre bên bờ sông Lô và đắm trong nỗi nhớ nhà. Những cuốn sách tôi mua ngày ấy còn đến bây giờ.
Đâu rồi cửa hàng tuyến lửa, nơi tôi cùng thằng Thuấn quê Nghệ Tĩnh vào mua hai mươi đồng bánh rán khiến các chị mậu dịch viên ngạc nhiên, hai anh ăn hết từng đây á. Không tiêu hết tiền sợ ngày mai không được tiêu nữa, có no cũng phải cố, sợ không có ngày xuống để được ăn bánh rán.
Căn nhà nhỏ của bưu điện Hà Giang ngày xưa thì tuyệt nhiên không thể nhận ra ở vị trí nào. Nơi đó, tôi đã gửi không ít những bức thư không dán tem, thay vào đó là dòng chữ trên phong bì “điều kiện lính chốt không có tem, nhờ bưu điện chuyển dùm”. Những bức thư là sợi dây tình cảm của người lính chốt với người thân đã được bưu điện Hà Giang kết nối đều đặn.
Con đường lên biên bây giờ rộng thênh. Tôi tìm tiếng sông Lô rì rào ngày xưa mỗi khi qua đây đều nghe thấy. Bây giờ chỉ thấy tiếng gió ào ào bên ô cửa xe.
Ngã ba Cửa Tử đây, Thung lũng gọi hồn kia. 812 cùng Coóc Nghè lẩn sau sương mù. Cầu sập, hang Dơi, hang Làng lò không giống ngày xưa. Không còn bầm dập, tan hoang vì cối pháo cày xới.
Đôi chân thong thả, lần tìm. Vị trí nào mình đã qua. Người lính năm xưa lạc ngay tại nơi hơn ba mươi năm trước mình đã phải gồng mình giành giật sự sống từng giây từng phút. Tại?
Tại sông Lô bây giờ không cuộn cuộn sắc đỏ. Tại suối Thanh Thủy không còn sâu như ngày ấy. Tại con suối trong xanh chảy trong lòng hang Làng Lò, hai bên là bờ cát không còn. Tiếc nhất là tầng hai của hang Làng Lò cũng không còn. Tại ….!
Còn cả tại ngày ấy đạn pháo tơi bời, có kịp định thần quan sát địa hình địa vật quanh mình đâu. Buổi hành quân hôm ấy, chúng tôi đi trong đêm tối mịt mùng, tay giơ trước mặt không thấy. Mưa tầm tã. Lần đầu trong đời đi qua đây vậy mà trước mặt, sau lưng mình không thấy ai, không người dẫn lối. Phía đồi bên, những đường đạn đỏ lừ, vặn mình găm vào trời đêm. Tiếng nổ chui sâu xuống lòng đất, ùng ục như mắc nghẹn. Khi nghe thấy tiếng người, dừng lại cũng đúng là nơi tập kết của đơn vị. Tôi gọi đó là linh giác của người lính dẫn đường.
Cái gì còn, cái gì mất! Hiệu sách nhân dân không còn nhưng những cuốn sách tôi mua ngày ấy vẫn còn tuy đã ố vàng, sờn gáy. Hang Làng Lò còn nhưng không “đẹp” như ngày xưa bởi không còn con suối chảy giữa lòng, không còn tầng hai. Những điểm cao trắng màu đá không còn vì màu xanh đã trở lại, phủ đầy. Sông Lô không còn cuồn cuộn sắc đỏ phù sa nhưng bây giờ có thêm “dòng sông” mang sắc xanh áo lính chảy ngược lại vào dịp tháng bẩy. Trở lại bên đài hương 468 nhìn về 772 và 685 tôi nhẩm đếm cái còn cái mất. Bên ấy, đồng đội tôi chưa quy tập được về, tuy đã hơn ba mươi năm nhưng tôi tin vẫn còn! Xương cốt đồng đội tôi hóa thành đá vun dưới chân cột mốc đường biên. Đá là vĩnh cửu.


Thứ Năm, 4 tháng 4, 2019

HÀNH TRANG CỦA NGƯỜI LÍNH VỊ XUYÊN



Những trận chiến ác liệt với chúng tôi, những người lính Vị Xuyên đã qua hơn ba mươi năm. Mọi người hay dùng câu “ám ảnh về cuộc chiến” hay “kí ức về một thời hoa lửa” để biểu đạt cho cảm xúc của người lính sau chiến tranh. Nhưng với tôi và tôi cũng chắc rằng không ít những đồng đội khác thì những từ ngữ đó như là chưa diễn đạt hết nỗi lòng. Tôi dùng hình ảnh so sánh như thế này, một con người luôn phải mang vác trên vai những hành trang cần thiết cho quãng đường đời của mình. Những thứ đồ ấy có thể phải bỏ lại để mình đi chặng tiếp. Những thứ đồ bỏ lại ấy được nhớ lại, được kể lại thông qua những kí ức, những ám ảnh, có sâu nặng hay không tùy thuộc vào cảm xúc mình trải qua quãng đường đời ấy. Còn hành trang trên vai ba năm mà người lính giữ đất Vị Xuyên mang vác thì đến giờ vẫn còn nặng trên vai, chưa thể bỏ xuống được, vẫn song hành cùng tôi. Cảm xúc của những trận chiến, những gian khổ hy sinh bị dồn nén đến cùng cực, để rồi từ một trạng thái tinh thần đã chuyển sang khối vật chất đè nặng lên vai người lính trở về.
Đã là chiến tranh, dù lớn hay nhỏ cũng cùng chung một đặc thù, đó là hy sinh mất mát. “Đồi thịt băm” – Đồi 772. “Lò vôi thế kỉ” – Cao điểm 685. “Cửa tử” – Ngã ba Thanh Thủy…. Còn nhiều địa danh khác nữa, chỉ cần nghe tên thôi cũng đủ cho ta thấy sự khắc nghiệt của mặt trận Vị Xuyên. Bỗng nghe ai đó nhắc tới một cái tên cùng tên với đồng đội ngã xuống cũng khiến tôi nao lòng. Những lần xem bắn pháo hoa, khi tiếng đầu nòng phát ra thì không khác gì một trận cối 60 sắp chụp xuống mình năm xưa. Cố kìm cũng không ngăn nổi những hàng nước mắt tràn ra. Nhiều ngày rên rĩ tiếng đạn pháo khiến những người lính Vị Xuyên phải mang âm thanh ấy đến tận bây giờ. Nhân ngày kỉ niệm 40 năm bảo vệ biên giới phía Bắc, cố gạt đi những câu chuyện hy sinh mất mát, tôi muốn kể lại những chuyện vui vui một chút cho nhẹ lòng.
- Mặc dù đã hơn ba tháng thao trường, cũng làm quen với đồi dốc nhưng lần đầu tiên lên chốt, cao điểm 812, leo được lưng chừng thì cơ bắp tôi nhão ra như nắm bông gặp nước. Phải chống tay xuống bò như con thú bốn chân. Đơn vị lên đỉnh, củng cố hầm hào công sự xong, không thấy hai thằng lính phố đâu mới cho người xuống đón.
- Thằng Đạo quê Vĩnh Phú, lần đầu lên 812, gặp pháo, nó nhao vào hầm nhưng ngồi ngoài. Thằng Bình ngồi trong đánh rắm, thằng Đạo tưởng pháo rít đẩy mọi người nhao tiếp vào trong. Vậy mà thằng Đạo không trở về. Nó hiền lắm.
- Đào hào trong nghìn mốt. Mưa tầm tã, 24/7. Mặc quần áo dính bết vào người khó chịu, lính mình khiêu khích ông trời bằng cách cũng 24/7 không quần áo. Sao ngày ấy không thằng nào nhìn thằng nào, cứ tự nhiên như được khoác bộ quần áo hoàng đế.
- Ngày ấy mình đã có ý định xem người lính nằm tránh pháo, tránh đạn thế nào, có giống phim không mà không thể thực hiện được.
- Một lần anh Ảm (người Thái), B trưởng 12 ly 7 ôm một bó “rau” đi qua hầm mình. Mọi người hỏi rau gì. Rau cải rừng (trông giống rau cải thật). Mọi người xin một ít nấu canh ăn. Hôm sau anh Ảm xuống hỏi, chúng mày vẫn sống à? Tao nhổ ở rừng, biết rau gì đâu. Ít ngày sau, chính anh Ảm cũng phải tìm thứ rau ấy để ăn (vì vận tải không lên được, cả tuần chỉ có muối trắng làm thức ăn)
- Cũng dạo ấy, chốt ở khe núi, chống đánh luồn sâu của địch nên có thể nấu ăn được. Hôm ấy 22 tháng 11 năm 1987, hầm mình kiếm được bữa rau rừng. Đang ăn chiều ở ngoài cửa hang (chắc khoảng 2 giờ, vì hôm ấy mù trời) thì bị pháo quây. Trận địa tan hoang. Sau trận pháo, nồi rau vẫn còn nguyên. Chỉ tội bụi đất hất vào không ít. Tiếc của, ngấy lên cho đất lắng xuống, ăn tiếp.

Thứ Năm, 3 tháng 1, 2019

HỌ ĐÃ CHIẾN ĐẤU VÌ DANH DỰ




Đề tài công nhân và người lao động vốn là thế mạnh quen thuộc và xuyên suốt quá trình sáng tác văn xuôi của nhà văn Nguyễn Quốc Hùng và anh đã thu được thành công ít nhiều. Nhưng đến tiểu thuyết thứ năm của mình mang tên “Mộ đá ngang lưng trời”, Nguyễn Quốc Hùng lại rẽ sang một đề tài hoàn toàn khác­ – đó là đề tài chiến tranh và người lính. Cuốn tiểu thuyết này ra đời sau khi trận chiến Vị Xuyên kết thúc được ba mươi năm và cũng là quãng thời gian mà tác giả đã trực tiếp cầm súng nơi chiến trường này, trở về sống đời bình thường sau quân ngũ. Với anh, những kí ức vẫn còn vẹn nguyên, sự xúc động về tình đồng đội vẫn còn dồn nén trong tâm trí, đã thúc giục bản thân phải bày tỏ khúc bi tráng của chiến trường qua trang viết. Ai từng biết đến những trận đánh Vị Xuyên (Hà Giang), ai từng biến đến sự khốc liệt của địa danh từng được ví như “cối xay thịt” này, đọc cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Quốc Hùng, hẳn khó cầm nước mắt.
Tiểu thuyết gồm 3 phần, mỗi phần đều có khúc Vĩ thanh riêng, liên kết và xuyên suốt. Tác giả dày công khắc họa hàng chục nhân vật lấy nguyên mẫu từ những người đồng đội, cùng nhau đi qua những cơn mưa rừng xối xả, những cơn bão đạn bỏng rát, những trận chiến bên bờ sinh – tử. Từng diễn biến tâm lý, sinh hoạt thường ngày của những người lính Vị Xuyên, từng phút từng giây của cuộc chiến được Nguyễn Quốc Hùng tường thuật lại khá chi tiết và chân thật, đến mức người đọc có cảm giác như đang cùng các chiến sĩ bấm chân trên những dốc núi trơn trượt, bết đất đỏ và còn có thể nghe thấy tiếng ầm của đạn, pháo, tiếng rung của đất núi và đá nơi biên giới Hà Giang ngày ấy. Ngay phần mở đầu, Nguyễn Quốc Hùng bộc bạch: “Tôi viết cuốn sách này bằng kí ức của tôi và của nhiều đồng đội khác.”. Chính là người trong cuộc nên tác giả giúp bạn đọc hiểu thấu đáo về cuộc sống, sinh hoạt và tư tưởng của người chiến sĩ trên mặt trận này. Những địa danh như “đồi thịt băm” hay “lò vôi thế kỉ” và nhiều cái tên khác mà những ai từng quan tâm tới mặt trận Vị Xuyên đã biết tới, nay thông qua cuốn tiểu thuyết, bằng những câu chuyện, những hình ảnh xác thực được tác giả phản ánh, bạn đọc lại thêm dịp có thể hiểu là tại sao có những cái tên nghe khủng khiếp như vậy.
Những chiến sĩ tham trận đánh Vị Xuyên trong chiến tranh biên giới phía Bắc những năm 1984 – 1989 được nhà văn Nguyễn Quốc Hùng khắc họa qua tiểu thuyết Mộ đá ngang lưng trời với dáng vóc hiên ngang, khí phách kiên cường, đã vì danh dự mà hy sinh xương máu bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của  Tổ quốc. Danh dự của con người, danh dự người chiến sĩ trên trận chiến này được tác giả nhiều lần nhắc tới. Tâm trạng của người lính trước khi vào trận chiến sinh tử động viên nhau: “– Sợ chứ. Ai chả sợ. Nhưng một khi chấp nhận là người lính tức là chấp nhận nguy hiểm, chấp nhận hy sinh, cái đấy nó át cái sợ đi thôi. Không biết ở tuổi cậu có thấy ấm ức trong lòng, còn cái danh dự nữa, nó vào cướp nhà mình thì mình phải chiến lại, có thấy thế không?
– Dạ!
– Danh dự đấy!”
Khi những người lính xung phong, quyết tử với kẻ thù, thì triết lý sống ấy thật giản dị như:“C trưởng nhìn đội hình đơn vị rồi hô to: – Vì danh dự, vì truyền thống của quân đội ta, tất cả anh em tiến lên!
Những bóng người bật dậy lao thẳng lên phía trước.”
Và còn cái danh dự quyết không để đánh mất, đó là làm xấu hình ảnh của người chiến sĩ trước kẻ thù thâm độc.

Thứ Sáu, 26 tháng 10, 2018

"ĐỒNG ĐỘI TÔI LÀ NHỮNG VIÊN ĐÁ NHỎ KIA ..."




Linh Chi : Báo Hải Phòng cuối tuần

“Ngọn núi ơi, đồng đội tôi là những viên dá nhỏ kia/ Những thân xác hóa đá núi Vị Xuyên/ Đá chồng lên đá/ Đồng đội ơi!? Ai nằm khe suối, ai thung sâu hay lưng chừng trời/ Về đây/ Ru hời ru/ Đá núi/ Ngủ đi!” - Những câu thơ như lời ru đồng đội vang lên từ tiểu thuyết “Mộ đá ngang lưng trời” của nhà văn Nguyễn Quốc Hùng khiến nhiều người cay mắt. Ai từng biết đến những trận đánh Vị Xuyên (Hà Giang), ai từng biến đến sự khốc liệt của địa danh từng được ví như “cối xay thịt” này, đọc tiểu thuyết của Nguyễn Quốc Hùng, sẽ không cầm được nước mắt…

1. “Tôi viết cuốn sách này bằng ký ức của tôi và của nhiều đồng đội khác. Viết để đuổi theo cái bóng của nó. Nó có tên, nhưng đã từng có hơn ba năm nằm hầm, nằm hang, chốt giữ đường biên với nhau gọi thế cho gợi thêm nỗi nhớ…” – Nguyễn Quốc Hùng bắt đầu câu chuyện của mình như vậy trong lời mở đầu tiểu thuyết “Mộ đá ngang lưng trời”. “Nó” mà anh nhắc tới là một đồng đội của anh, một người kém tuổi anh, đi với anh như hình với bóng trong suốt những tháng ngày tham gia trận chiến gìn giữ vùng biên giới của Tổ quốc nơi cổng trời Hà Giang. Sau lời mở đầu giới thiệu ấy, “nó” xuất hiện trong tiểu thuyết là nhân vật Hoàng “dở”. Cùng nhân vật chính tên Huy và những người đồng đội khác. Các nhân vật đưa người đọc cùng tham gia những trận phục kích, hành quân, đối mặt với tuyến lửa nơi biên giới Việt nam – Trung Quốc trong trận đánh Vị Xuyên năm ấy.
Tiểu thuyết được bố cục thành 3 phần. Mỗi phần đều có khúc “Vĩ thanh” riêng. Tưởng như tách biệt nhưng đều liên kết và xuyên suốt bởi chính những nhân vật cùng nhau đi qua những cơn mưa rừng xối xả, những cơn bão đạn bỏng rát, những trận chiến bên bờ sinh – tử. Từng phút, từng giây, từng diễn biến tâm lý, sinh hoạt thường ngày của những người lính Vị Xuyên được tường thuật lại chi tiết và chân thật. Đến mức, người đọc có cảm giác như đang cùng các chiến sĩ bấm chân trên những dốc núi trơn trượt, bết đất đỏ ấy. Và còn có thể nghe thấy tiếng ầm của đạn, pháo, tiếng rung của đất núi và đá qua tường thuật chi tiết của Nguyễn Quốc Hùng.

Thứ Sáu, 19 tháng 1, 2018

CHUYỆN VỀ MỘT “NHÀ VĂN CÔNG NHÂN”


CHUYỆN VỀ MỘT “NHÀ VĂN CÔNG NHÂN”

“Những anh công nhân bốc xếp như chúng tôi vì cái tội ngửi mùi mồ hôi của nhau nhiều hơn mùi mồ hôi vợ mà mang nợ nhau. Chuyện của những người quanh tôi gắn bó với tôi nhiều lắm, không dứt ra được, cho nên cứ phải viết về họ: - Tâm sự của nhà văn Nguyễn Quốc Hùng khi nói về đề tài công nhân lao động trong các sáng tác của anh. Cầm trên tay cuốn tiểu thuyết “Thủy sinh” hay bất kì cuốn sách nào do anh viết, ít ai biết rằng tác giả của những tập truyện ngắn và tiểu thuyết ấy là một người công nhân lái cần trục chân đế tại Cảng Hải Phòng, được bạn văn yêu mến đặt cho tên gọi thân mật “ nhà văn công nhân”.
Nhà văn Nguyễn Quốc Hùng sinh ra và lớn lên tại Hải Phòng. Học xong phổ thông, vào bộ đội rồi trở về quê hương học nghề, anh trở thành công nhân điều khiển cần trục chân đế ở Cảng Hải Phòng. Thế rồi hình ảnh của những người thợ cùng với cuộc sống sôi động luôn hiện ra trước mắt anh. Anh cho rằng, hiện thực cuộc sống lao động với những người công nhân Cảng Hải Phòng đã và đang diễn ra trước mắt đủ nuôi cả một đời văn cho những ai ham mê viết lách, chẳng riêng gì anh.
Đọc tác phẩm của Nguyễn Quốc Hùng thấy rõ tình cảm của nguồi viết với nhân vật. Và có lẽ đó cũng chính là mạch nguồn nối dài “nghiệp văn” của anh. Năm 2005, anh cho in cuốn tiểu thuyết “Chuyến hàng mưa”. Nhân vật ông Phiện là một người công nhân bốc xếp có ngoại hình thô ráp, mang tính bẳn gắt của người lao động nặng. Nhưng khi phải chia tay nhóm học sinh thực hành tại Cảng, ánh mắt mang theo niềm xúc động, da diết. Cuộc sống tươi trẻ, hồn nhiên của nhóm học sinh đã làm khuấy động cuộc sống của ông. Tiểu thuyết “Chuyến hàng mưa” từng đoạt giải thưởng của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các hội VHNT Việt Nam năm 2006.
Sau này, Nguyễn Quốc Hùng vẫn tiếp tục khắc họa hình ảnh ông Phiện, giữ nguyên ngoại hình và tính cách trong một số tác phẩm khác. Bởi lẽ, câu chuyện chia tay với nhóm học sinh đến lao động thực tế tại Cảng cùng ánh mắt rưng rưng niềm xúc động của người công nhân Cảng là một câu chuyện hoàn toàn có thật.  Từ đấy mà anh đi tìm mãi những ý tưởng, những cốt truyện xoay quanh ánh mắt ấy. Đọng lại sâu lắng và thành công sau này còn có truyện ngắn “Mặt trời dưới lòng sông”.
Một điều đặc biệt là Nguyễn Quốc Hùng chỉ viết âm thầm. Âm thầm như bản tính trầm lặng của anh vậy. Không mấy ai ở xí nghiệp xếp dỡ Hoàng Diệu biết đằng sau những giờ làm việc căng thẳng, anh vẫn say mê sinh hoạt trong Câu lạc bộ sáng tác văn học trẻ của thành phố, sau này được kết nạp vào Hội Nhà văn Hải Phòng, rồi Hội Nhà văn Việt Nam. Khi anh đã có những truyện ngắn được đăng trên một số tờ báo và tạp chí văn chương, thâm chí đoạt giải thưởng cho cuốn tiểu thuyết và cuộc thi truyện ngắn trên báo Văn Nghệ thì đồng nghiệp ở Cảng cũng vẫn không biết anh là một cây bút ham mê sáng tác văn học. Anh cũng thực sự rất thích và yêu mến cái tên gọi “Nhà văn công nhân” mà mọi người vẫn thường gọi mình.
Sau “Chuyến hàng mưa” – cuốn tự truyện của người công nhân Cảng, Nguyễn Quốc Hùng xuất bản tập truyện ngắn “Mặt trời dưới lòng sông” , tập hợp những tác phẩm của anh đã đăng ở một số báo và tạp chí văn chương. Rồi đến “Dòng sông chở kiếp” viết về đề tài nông thôn. Anh giới thiệu “Dòng sông chở kiếp” đưa bạn đọc trở về với một làng quê vùng châu thổ sông Hồng, nơi có ánh đồng, có ngôi chùa thấp thoáng sau rặng tre, nơi có những người nông dân chất phác, thật thà, quanh năm một sương hai nắng, bỗng phải đối mặt với đầy những biến động trong đời thường nơi thôn dã.  Gần đây nhất là cuốn tiểu thuyết “Thủy sinh” xuất bản năm 2011. Cuốn tiểu thuyết được nhận xét rằng đã chạm đến tận cùng tâm tư của người lao động. Cũng đúng thôi, bởi một lần nữa, Nguyễn Quốc Hùng lại chạm đến đề tài “tủ” của mình bằng tất thảy tình cảm dành cho những đồng nghiệp. Rồi đây, những nhân vật như ông Phiện (Chuyến hàng mưa), như Phương (Thủy sinh) ... sẽ còn được khắc họa sinh động, rõ nét trong mỗi trang văn của anh.
Đầu sách đã được xuất bản của Nguyễn Quốc Hùng chưa nhiều, tài sản văn chương chưa hẳn “giàu có” nhưng điều quý giá ở anh chính là sự “giàu có” trong tâm hồn văn. Nói vậy chắc cũng chẳng quá với một người công nhân, đã lấy văn chương làm niềm vui, niềm đam mê. Người công nhân ấy làm việc theo ca kíp, thời gian dành cho văn còn quá ít. Viết được một truyện ngắn, một tiểu thuyết hay thật khó. “Nhưng khó lại chính là động lực cuốn được sự đam mê của con người” – anh khảng định chắc nịch.
Huyền Trâm
(Báo An ninh Hải Phòng – số 3006 – thứ tư ngày 23 tháng 10 năm 2013)


Thứ Hai, 8 tháng 2, 2016

"THỜI" CỦA VĂN HỌC CÔNG NHÂN (Nhà văn Phong Điệp trả lời phỏng vấn)




(Nhân Dân) - Theo dõi đời sống văn học nhiều biến động, không ít người bày tỏ sự nghi ngờ về sức hút của văn học về đề tài công nhân. Thậm chí có ý kiến còn cho rằng, văn học về đề tài công nhân không còn cần thiết. Phải chăng đã qua "thời" của văn học công nhân?
"Một thuở vàng son"
Sự thiếu vắng những tác phẩm văn học thật sự hấp dẫn, thuyết phục về đề tài công nhân khiến nhiều người không khỏi tiếc nhớ đến một giai đoạn "vàng son" trong quá khứ. Giai đoạn đó, rất nhiều nhà văn đã thành danh và ghi dấu ấn của mình với mảng đề tài này. Đó là Nguyên Hồng với bộ tiểu thuyết Cửa biển;Ma Văn Kháng với Mưa mùa hạ, Một chiều giông gió; Trần Nhuận Minh với Âm điệu một vùng đất, Thành phố bên này sông, Trước mùa mưa bão, Hòn đảo phía chân trời... Đó là Lý Biên Cương lăn lộn làm báo Vùng mỏ và từ đó đã viết ra những tác phẩm ấn tượng như: Khoảng không của đất, Người đãi vàng... Ông đã đoạt giải thưởng chính thức văn học về đề tài công nhân lần thứ I của Hội Nhà văn và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Xuân Cang với Suối gang, Lên cao, Trước lửa, Chặng đường nóng bỏng. Ông đã nhận Tặng thưởng văn học đề tài công nhân của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam lần I (1969 - 1971) và lần II (1972 - 1974). Đó là Võ Huy Tâm, người con của tỉnh Nam Định đã theo gia đình đến sinh sống và lập nghiệp ở vùng mỏ. Những ngày tháng làm thợ mỏ ở mỏ than Uông Bí đã giúp ông có những trải nghiệm quý giá để viết nên tác phẩm nổi tiếng Vùng mỏ(tiểu thuyết đoạt giải nhất Giải thưởng Văn nghệ của Hội Văn nghệ Việt Nam năm 1951-1952). Ngoài ra ông còn nhiều tác phẩm khác vẫn trung thành với người thợ mỏ như: Chiếc cán búa, Ngõ ngang xóm thợ, Những người thợ mỏ... Đó là Võ Khắc Nghiêm với Xung đột âm thầm, 16 tấn vàng, Tìm lại chính mình, Mạnh hơn công lý. Ông đã đoạt giải A văn học về đề tài công nhân năm 1990-1995. Một nhà văn nữa cũng rất đặc sắc là Tạ Vũ, người đã được tặng thưởng của Tổng Công đoàn Việt Nam năm 1975 cho tập Những cánh chim trời. Suốt thời tuổi trẻ của mình, Tạ Vũ xung phong đi khôi phục đường sắt ở miền tây, đi làm công nhân thăm dò địa chất. Ông không ngại xông pha, để rồi cho ra đời những tác phẩm thật sự ám ảnh với độc giả.

Thứ Sáu, 29 tháng 1, 2016

Nhà văn công nhân đam mê viết về người lao động




Bùi Thu Hằng
Nhà văn Nguyễn Quốc Hùng, với niềm đam mê sáng tác về đề tài công nhân. Anh viết như để trả nợ, những cuộc đời lam lũ, đã đồng hành cùng anh, mà “Đồng cam cộng khổ. Anh mượn những nhân vật có thật để nói nên trăn trở của mình, số phận mình . Anh bắt đầu đặt những viên gạch đầu tiên vào ngôi nhà văn chương, từ câu lạc bộ sáng tác văn trẻ Hải Phòng, rồi trở thành Hội viên hội nhà văn Hải Phòng. Hội viên hội nhà văn Việt Nam. Trong mười năm, từ năm 2005 - 2015, cùng với guồng quay chóng mặt, sáu tiếng một ca với công việc  lái cần trục chân đế cho Xí nghiệp xếp dỡ Hoàng Diệu. Anh đã trăn trở với những trang viết nhọc nhằn về số phận con người lao động, trong kiếp phù sinh. Anh cho ra đời liên tiếp 4 tập tiểu thuyết, và 1 tập truyện ngắn. Tiểu thuyết “Chuyến hàng mưa”,  xuất bản năm 2005. Tập truyện ngắn “Mặt trời dưới lòng sông”, xuất bản năm 2008. Tiểu thuyết “Dòng sông chở kiếp”, xuất bản năm 2009. Tiểu thuyết “Thủy sinh”, xuất năm 2011. Tiểu thuyết “ 720 độ góc luân hồi”, xuất  bản năm 2015. Mười năm, với bút lực dồi dào, số lượng những đứa con ra đời của anh chỉ liệt kê cũng đủ hoa mắt. Các tập sách của anh liên tiếp nhận được các giải thưởng, từ Liên Hiệp Các Hội Văn Học Nghệ Thuật Việt Nam, Báo Văn nghệ. Đặc biệt năm 2015 tập tiểu thuyết “720 độ góc luân hồi’ của anh được giải nhì Cuộc vân động sáng tác văn học về đề tào Công nhân và Công đoàn giai đoạn 2010 – 2014.

Thứ Tư, 13 tháng 1, 2016

KHÁM PHÁ MỘT GÓC NHỎ CỦA HẢI PHÒNG TRONG THƠ HOÀI KHÁNH


“Và trong tôi có một Hải Phòng / Khi em nhắc tới màu hoa phượng đỏ” Phải tự hào với mảnh đất nơi mình sinh ra và lớn lên, nhà thơ Hoài Khánh mới có những câu thơ da diết như vậy trong tập thơ Có một Hải Phòng do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn bản vào tháng 10 năm 2015.
Hải Phòng, vùng đất mà nắng làm bạc thêm lưng áo người thợ và gió làm rộn thêm tiếng còi tầu hú dài trên bến cảng, cả màu hoa phượng cũng đỏ căng để sắc màu được cháy hết mình, giống như cuộc sống sôi động của con người nơi đây. Qua tập thơ Có một Hải Phòng, nhà Thơ Hoài Khánh sẽ dẫn bạn đọc đi qua những địa danh mang vẻ đẹp rất riêng của thành phố Hải Phòng. Trước hết là Hòn Dáu, hòn đảo nhỏ có địa thế và cảnh quan thơ mộng. Trên đó còn có ngọn hải đăng cùng trạm thủy văn mà đến với khu du lịch Đồ Sơn ai cũng muốn ghé thăm.
                          Thấp thoáng mảnh mai dốc đảo
                          Theo lối em rất riêng
                          Gió đại dương phồng căng ngực áo
                          Đồ Sơn mặt trời ngả nghiêng …
                                         ( Viết ở trạm thủy văn Hòn Dáu)
Rồi đến Thăm đền Trạng Trình ngày xuân
                          Vào đền cúi lạy hồn thiêng
                          Ngoài sân cái rét tháng giêng cũng gày
                          Bạch Vân Am ở chốn này
                          Hồn người xưa đã theo mây về trời

Thứ Sáu, 20 tháng 11, 2015

CHUYỆN VỀ MỘT “NHÀ VĂN CÔNG NHÂN”




Huyền Trâm

(Báo An ninh Hải Phòng – số 3006 – thứ tư ngày 23 tháng 10 năm 2013)
“Những anh công nhân bốc xếp như chúng tôi vì cái tội ngửi mùi mồ hôi của nhau nhiều hơn mùi mồ hôi vợ mà mang nợ nhau. Chuyện của những người quanh tôi gắn bó với tôi nhiều lắm, không dứt ra được, cho nên cứ phải viết về họ: - Tâm sự của nhà văn Nguyễn Quốc Hùng khi nói về đề tài công nhân lao động trong các sáng tác của anh. Cầm trên tay cuốn tiểu thuyết “Thủy sinh” hay bất kì cuốn sách nào do anh viết, ít ai biết rằng tác giả của những tập truyện ngắn và tiểu thuyết ấy là một người công nhân lái cần trục chân đế tại Cảng Hải Phòng, được bạn văn yêu mến đặt cho tên gọi thân mật “ nhà văn công nhân”.
Nhà văn Nguyễn Quốc Hùng sinh ra và lớn lên tại Hải Phòng. Học xong phổ thông, vào bộ đội rồi trở về quê hương học nghề, anh trở thành công nhân điều khiển cần trục chân đế ở Cảng Hải Phòng. Thế rồi hình ảnh của những người thợ cùng với cuộc sống sôi động luôn hiện ra trước mắt anh. Anh cho rằng, hiện thực cuộc sống lao động với những người công nhân Cảng Hải Phòng đã và đang diễn ra trước mắt đủ nuôi cả một đời văn cho những ai ham mê viết lách, chẳng riêng gì anh.

Thứ Hai, 31 tháng 8, 2015

ĐỘI NGŨ VIẾT VĂN TRẺ HẢI PHÒNG HƯỞNG ỨNG CUỘC VẬN ĐỘNG “HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH”



(Bình minh mưa)

Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người hiện thân của những giá trị đạo đức, văn hoá của dân tộc - Người là một tấm gương mẫu mực về đạo đức cách mạng để toàn đảng, toàn dân noi theo. Coi đạo đức là nền tảng của con người cách mạng, Bác Hồ đặc biệt quan tâm tới việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân.
 "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" là cuộc vận động sâu rộng trong toàn đảng, toàn dân ta nhằm đáp ứng được với những vận hội mới, thách thức mới, để đưa nước ta trở nên đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, báo đáp lại công ơn của con Người đã hy sinh cả cuộc đời vì nền độc lập, thống nhất cho dân tộc Việt Nam, vì một thế giới hoà bình và phát triển. Hội liên hiệp văn học nghệ thuật thành phố Hải Phòng phát động sáng tác, quảng bá tác phẩm văn học - nghệ thuật về chủ đề "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" là hành động thiết thực của những văn nghệ sĩ đất Cảng góp một tiếng nói cùng Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố Hải Phòng tiếp tục cổ động phong trào thi đua yêu nước trong thời kỳ đổi mới, biểu dương các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc, dấy lên phong trào "Người tốt việc tốt", nêu gương sáng đạo đức cách mạng để mọi người tôn vinh và noi theo.
Ngày 20 tháng 10 năm 1946, khi đặt chân xuống bến Cầu Ngự Người hằng mong, Hải Phòng sẽ trở thành thành phố gương mẫu trong nước ta. Trải qua chặng đường dài đấu tranh và dựng xây, chúng ta đã làm được gì để thoả lòng mong mỏi của Người? Đội ngũ công nhân Hải Phòng đã đóng được những con tầu trên năm vạn tấn, hơn mười hai triệu tấn hàng hoá qua đôi vai người công nhân Cảng đi đến mọi miền Tổ quốc, hàng triệu tấn sắt thép, xi măng ra lò ... Hãnh diện lắm chứ khi thành phố đã thực sự là một trong những thành phố công nghiệp hàng đầu trong cả nước.