Thứ Năm, 4 tháng 4, 2019

HÀNH TRANG CỦA NGƯỜI LÍNH VỊ XUYÊN



Những trận chiến ác liệt với chúng tôi, những người lính Vị Xuyên đã qua hơn ba mươi năm. Mọi người hay dùng câu “ám ảnh về cuộc chiến” hay “kí ức về một thời hoa lửa” để biểu đạt cho cảm xúc của người lính sau chiến tranh. Nhưng với tôi và tôi cũng chắc rằng không ít những đồng đội khác thì những từ ngữ đó như là chưa diễn đạt hết nỗi lòng. Tôi dùng hình ảnh so sánh như thế này, một con người luôn phải mang vác trên vai những hành trang cần thiết cho quãng đường đời của mình. Những thứ đồ ấy có thể phải bỏ lại để mình đi chặng tiếp. Những thứ đồ bỏ lại ấy được nhớ lại, được kể lại thông qua những kí ức, những ám ảnh, có sâu nặng hay không tùy thuộc vào cảm xúc mình trải qua quãng đường đời ấy. Còn hành trang trên vai ba năm mà người lính giữ đất Vị Xuyên mang vác thì đến giờ vẫn còn nặng trên vai, chưa thể bỏ xuống được, vẫn song hành cùng tôi. Cảm xúc của những trận chiến, những gian khổ hy sinh bị dồn nén đến cùng cực, để rồi từ một trạng thái tinh thần đã chuyển sang khối vật chất đè nặng lên vai người lính trở về.
Đã là chiến tranh, dù lớn hay nhỏ cũng cùng chung một đặc thù, đó là hy sinh mất mát. “Đồi thịt băm” – Đồi 772. “Lò vôi thế kỉ” – Cao điểm 685. “Cửa tử” – Ngã ba Thanh Thủy…. Còn nhiều địa danh khác nữa, chỉ cần nghe tên thôi cũng đủ cho ta thấy sự khắc nghiệt của mặt trận Vị Xuyên. Bỗng nghe ai đó nhắc tới một cái tên cùng tên với đồng đội ngã xuống cũng khiến tôi nao lòng. Những lần xem bắn pháo hoa, khi tiếng đầu nòng phát ra thì không khác gì một trận cối 60 sắp chụp xuống mình năm xưa. Cố kìm cũng không ngăn nổi những hàng nước mắt tràn ra. Nhiều ngày rên rĩ tiếng đạn pháo khiến những người lính Vị Xuyên phải mang âm thanh ấy đến tận bây giờ. Nhân ngày kỉ niệm 40 năm bảo vệ biên giới phía Bắc, cố gạt đi những câu chuyện hy sinh mất mát, tôi muốn kể lại những chuyện vui vui một chút cho nhẹ lòng.
- Mặc dù đã hơn ba tháng thao trường, cũng làm quen với đồi dốc nhưng lần đầu tiên lên chốt, cao điểm 812, leo được lưng chừng thì cơ bắp tôi nhão ra như nắm bông gặp nước. Phải chống tay xuống bò như con thú bốn chân. Đơn vị lên đỉnh, củng cố hầm hào công sự xong, không thấy hai thằng lính phố đâu mới cho người xuống đón.
- Thằng Đạo quê Vĩnh Phú, lần đầu lên 812, gặp pháo, nó nhao vào hầm nhưng ngồi ngoài. Thằng Bình ngồi trong đánh rắm, thằng Đạo tưởng pháo rít đẩy mọi người nhao tiếp vào trong. Vậy mà thằng Đạo không trở về. Nó hiền lắm.
- Đào hào trong nghìn mốt. Mưa tầm tã, 24/7. Mặc quần áo dính bết vào người khó chịu, lính mình khiêu khích ông trời bằng cách cũng 24/7 không quần áo. Sao ngày ấy không thằng nào nhìn thằng nào, cứ tự nhiên như được khoác bộ quần áo hoàng đế.
- Ngày ấy mình đã có ý định xem người lính nằm tránh pháo, tránh đạn thế nào, có giống phim không mà không thể thực hiện được.
- Một lần anh Ảm (người Thái), B trưởng 12 ly 7 ôm một bó “rau” đi qua hầm mình. Mọi người hỏi rau gì. Rau cải rừng (trông giống rau cải thật). Mọi người xin một ít nấu canh ăn. Hôm sau anh Ảm xuống hỏi, chúng mày vẫn sống à? Tao nhổ ở rừng, biết rau gì đâu. Ít ngày sau, chính anh Ảm cũng phải tìm thứ rau ấy để ăn (vì vận tải không lên được, cả tuần chỉ có muối trắng làm thức ăn)
- Cũng dạo ấy, chốt ở khe núi, chống đánh luồn sâu của địch nên có thể nấu ăn được. Hôm ấy 22 tháng 11 năm 1987, hầm mình kiếm được bữa rau rừng. Đang ăn chiều ở ngoài cửa hang (chắc khoảng 2 giờ, vì hôm ấy mù trời) thì bị pháo quây. Trận địa tan hoang. Sau trận pháo, nồi rau vẫn còn nguyên. Chỉ tội bụi đất hất vào không ít. Tiếc của, ngấy lên cho đất lắng xuống, ăn tiếp.

Qua cuốn tiểu thuyết Mộ đá ngang lưng trời, tôi viết về đồng đội sau đúng ba mươi năm trận chiến Vị Xuyên kết thúc có giải thích hai hiện tượng không biết có đúng.
Một lần hành quân chiếm lĩnh trận địa đúng vào lúc đêm tối mịt mùng, bàn tay giơ trước mặt cũng không nhìn thấy. Và mưa xối xả. Trước mặt tôi có ai và khoảng cách bao xa, không thấy. Đường dưới chân tôi dẫn tới đâu, chưa một lần đi đâu sao biết được. Đôi chân cứ bước mải miết. Và đến khi có tiếng người lao xao thì dừng lại. Đúng nơi tập kết của đơn vị. Tôi gọi đó là linh giác của người lính đã dẫn lối.
Khi súng đã nổ, chỉ huy hô xung phong, bước chân người lính chỉ biết lao lên phía trước. Với người lính giữ chốt Vị Xuyên, tôi gọi đó là danh dự tiềm ẩn trong mỗi người lính trỗi dậy.
Chuyện người lính kể không bao giờ hết. Hơn ba mươi năm, nhưng những hình ảnh của đồng đội vẫn song hành với cuộc đời tôi. Song hành khiến tôi thấy cuộc đời thật cần thiết phải gắn kết tình người với nhau. Song hành để tôi thấy tự hào, chúng tôi đã góp phần giữ vững biên cương Tổ Quốc.
Hơn ba mươi năm, cảnh vật thay đổi nhiều. Những “Lò vôi thế kỉ” khi xưa giờ màu xanh đã phủ kín đá trắng. “Đồi thịt băm” đã vàng óng màu lúa chín trên những thửa ruộng bậc thang. “Thung lũng tử thần” đã có nhà văn hóa, ủy ban xã tề tựu. Cảnh vật thật thanh bình. Tôi ngồi tựa lưng vào cột mốc 261 bên cửa khẩu Thanh Thủy lắng nghe tiếng sông Lô chảy rì rào.

Xương cốt đồng đội tôi còn nằm ở nơi nao!?

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét