Hải Phòng, mảnh đất của thợ thuyền. Những con người nơi
đây lam lũ, oằn mình qua giông bão và khổ đau. Đó là lớp nhân vật đáng trân
trọng trên những trang văn Nguyên Hồng, nhà văn của những người cùng khổ. Hải
Phòng hơn một thế kỉ qua là đô thị công nghiệp, với tiếng còi tầu rền vang trên
dòng sông Cấm, với nhà máy xi măng ống khói vươn cao khát vọng, với những nhà
máy cơ khí đi đầu trong công cuộc xây dựng đất nước như đóng dầu Bạch Đằng, cơ
khí Duyên Hải... Con người Hải Phòng thì quả cảm, phóng khoáng nhưng cũng kiên
gan những năm khói lửa chiến tranh. Những ai từng một lần qua Hải Phòng, đều có
tâm trạng giống như tâm trạng của nhà thơ Nguyễn Đình Thi qua bài thơ “Nhớ”:
“Hải Phòng ơi đêm nay bỗng nhớ
Tiếng còi tầu sông Cấm chiều hôm”
Thi sĩ Lưu Quang Vũ, sau những
năm tháng sống và gắn bó với Hải Phòng, đã vẽ lên bức tranh bằng thơ u buồn mà
tuyệt đẹp về thành phố cảng bụi bặm của những người công nhân khuân vác, những
thủy thủ tầu viễn dương yêu lao động cuồng nhiệt mê say trong bài thơ “Những
người bạn khuân vác”. Ở trường ca Những người trên cửa biển nhà thơ
kiêm nhạc sĩ đa tài Văn Cao cho người đọc thấy được cuộc sống của những người
thợ thành phố Cảng khó nhọc với những câu thơ hay đến nao lòng.
“Mỗi
người dân Hải Phòng thật kiếm ăn từ nhỏ
Mỗi
người dân Hải Phòng đều biết đổ mồ hôi”
Lại nói về Nguyên Hồng, ông không
chỉ có tác phẩm về người lao động Hải Phòng cho riêng mình mà ông còn là người
thầy truyền thụ niềm đam mê và kiến thức nghề văn cho những nhà văn Hải Phòng
xuất thân từ người thợ như Thanh Tùng, Đào Cảng, Trần Lưu, Thi Hoàng, Nguyễn
Tùng Linh, Nguyễn Thụy Kha, Vũ Hữu Ái … Lớp nhà văn thời kì những năm khói lửa
chiến tranh là những đại diện ưu tú không chỉ với văn học Hải Phòng mà còn là
những người đặt viên gạch đầu tiên xây lên ngôi nhà của văn học đề tài công
nhân và người lao động trên cả nước.
Trong bài thơ “Phố
cửa biển”, Thanh Tùng có những câu thơ hừng hực chất thợ thuyền: Tôi
bước lẫn những tấm lưng mồ hôi hầm hập/ Thấy mặn lòng, từng vết muối trắng vai
ai
Bạn bè gọi Đào Cảng là “Nhà thơ
của thợ”. Trong thơ ông hình ảnh những người thợ Việt Nam của một thời kì gian
khổ nhưng đầy lạc quan vừa đánh giặc vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thơ của Thi Hoàng trầm tư trong
cái nhìn đầy triết luận: Mũi con tầu tinh
anh như con mắt / Từ cửa sông này nhìn suốt đại dương (Nhịp sóng)
Truyện dài Những người mở đường của Vũ Hữu Ái bằng những câu chữ đầy chất thơ
tràn lên từ cuộc sống trẻ trung, từ những cảnh lao động dưới mưa rừng mù mịt,
ăn cháo trong đêm bàn chuyện tương lai. Rồi một Trần Lưu với những câu đầy chất
thợ. Một Nguyễn Tùng Linh tạc hình ảnh người thợ bằng những câu thơ vâm váp.
Trong những ngày đánh Mĩ, mỗi câu
thơ, đoạn văn của đội ngũ nhà văn Hải Phòng đã tạo dựng được chân dung một
thành phố cửa biển sừng sững với những người công nhân vai sắt chân đồng làm
việc hết mình, sống hết mình.
Sau 1975, Hải Phòng cùng cả nước
trăn trở những ngày đầu bước vào thời kì xây dựng nền kinh tế. Văn học công
nhân và người lao động Hải Phòng giai đoạn này có phần như chững lại. Lẽ tự
nhiên bởi các nhà văn lớp chống Mĩ tuổi đã cao, nội lực giảm sút, chỉ còn nhà
thơ Thi Hoàng vẫn giữ được phong độ với trường ca Gọi nhau qua vách núi –
Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam và những tập thơ giá trị khác. Lớp nhà văn mới
hình thành. Lưu Văn Khuê lăn lộn với thực tiễn cuộc sống, gần đây ông có những
tiểu thuyết về đề tài lịch sử như Mạc Đăng Dung hay Đấu
trường sông nước viết về nhà tư sản Bạch Thái Bưởi. Phạm Ngà với những
trang thơ chau chuốt, nồng nàn hơi thở cuộc sống công nghiệp, “Không gian sôi mãi tiếng ve sôi”. Trần
Tự thực sự là một “nhà văn công nhân”. Câu chữ của ông gắn chặt với lao động,
với máy móc, xe cộ, búa đe … thông qua những tiểu thuyết Miền khơi, Biển trắng, Giữa hai
chiều gió… Từ thực tiễn đời sống người thợ của mình, Lương Văn Chi,
Đinh Quyền, Huy Liệu, Nguyễn Xuân Nghĩa, Nguyễn Mạnh Quý, Nguyễn Minh Dậu… dốc
toàn tâm toàn lực lên những trang truyện ngắn về thân phận người lao động, cho
ra đời những trang văn ngồn ngộn chi tiết đời thực của người công nhân thời kì
xóa bỏ bao cấp, tiếp cận dần với cơ chế thị trường đầy khốc liệt.
Không ít người cho rằng, công
nhân và người lao động là một đề tài văn học khó viết và khó hay, vì nó khô
cứng, áp đặt, không gian hạn hẹp, không thỏa sức sáng tạo. Thế nhưng, hiểu theo
nhà văn Nguyễn Văn Thọ, khi xây dựng hình tượng văn học là người Việt ở
nước ngoài cũng là một lực lượng lao động có đóng góp cho nền kinh tế đất nước,
vậy tiểu thuyết Quyên của ông cũng
thuộc đề tài này. Thực tiễn văn học Việt Nam hiện nay đang mở rộng biên độ
của khái niệm về đề tài công nhân và người lao động.
Qua hơn 30 năm thực hiện công
cuộc đổi mới đất nước, nhiều thành phần kinh tế ngoài kinh tế nhà nước được
thừa nhận, từng bước được coi trọng là động lực cho nền kinh tế phát triển. Đối
tượng công nhân và người lao động bây giờ nhiều thành phần hơn. Một thời đại
công nghiệp 4.0 đang khơi mở xu thế phát triển mới, hình thành lớp người làm ra
sản phẩm cho xã hội phần lớn sẽ là những người mặc blu trong phòng nghiên cứu,
là những người lập trình cho rô bốt, làm việc với công nghệ cao, không cần phải
bóng dáng người thợ mồ hôi ướt đẫm lưng trần. Họ sẽ là một kiểu nhân vật chính
của đề tài văn học này. Đất nước trong xu thế hội nhập toàn cầu, đòi hỏi nhà
văn bắt nhịp theo để sáng tạo hơn trong cách xử dụng con chữ. Văn chương theo
kiểu minh họa trước đây dần dần nhường chỗ cho những tác phẩm thể hiện nội tâm,
ý tưởng của tác giả thông qua những chủ đề tư tưởng, biểu trưng nghệ thuật. Có
lẽ thế mà ranh giới giữa các đề tài văn học bị nhòe mờ, thậm chí giao thoa sang
nhau. Dẫu sao, đề tài công nhân và người lao động trong giai đoạn hiện nay vẫn
cần được nhắc lại và khảng định rõ nét hơn trong không gian sáng tạo nghệ
thuật, coi đó là một diện mạo đầy đủ và khỏe khoắn trên cơ thể văn học nước ta
hôm nay.
Những năm gần đây, Hải Phòng có
đội ngũ viết văn, làm thơ đông đảo, có hơn 140 hội viên của thành phố, trong đó
có 26 nhà văn là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thể nói, sự lớn mạnh và
những thành tựu của văn chương Hải Phòng từ trước tới nay luôn gắn liền với đề
tài văn học về công nhân và người lao động.
Với những người viết văn và làm
thơ Hải Phòng, trên trang viết của họ luôn nóng hổi cuộc sống người thợ, văng
vẳng tiếng còi tầu, tiếng những chuyến xe gầm gừ nặng nhọc lăn bánh qua phố, màu
xanh áo thợ và nồng nàn hương vị biển. Họ luôn lấy đề tài công nhân và người
lao động là một không gian sáng tạo đầy tình nghĩa. Mai Văn Phấn cách tân hòa
nhập với dòng chảy thơ hiện đại, những dòng thơ từ mạch cảm hứng trào dâng với
chiêm nghiệm đầy triết lý. Hồ Anh Tuấn đắm say với những người công nhân thủy
sản, vật lộn cùng sóng gió nhưng vẫn đầy chất thơ mộng của khơi xa. Tô Ngọc
Thạch dào dạt chất thơ về người lao động và cuộc sống người thợ của thành phố
biển. Tập thơ: Bước nắng đã tạo được dấu ấn đáng kể. Thành công trong sáng tác
văn học cho thiếu nhi nhưng Hoài Khánh cũng đã gửi gắm chút tâm tình của mình
với người lao động đất cảng qua 2 tập thơ Có một Hải Phòng và Sưởi
ấm những ngày xa. Với những bài thơ dung dị, mộc mạc giống như tính
cách của con người vùng cửa biển. Những nhân vật làm nên cảm xúc thơ của Hoài
Khánh rất gần gũi, thân thuộc mà ta vẫn gặp hàng ngày. Bởi Hải Phòng là thành
phố của những con người hăng say lao động. Một Phạm Xuân Trường đắm say với
những câu thơ tạc nên chân dung người thợ thô ráp mà đầy cảm mến. Một Nguyễn
Thị Thúy Ngoan với những câu thơ chan chứa tình cảm về những con người lao động
thân thương. Một Công Nam suy tư với những câu thơ chiêm nghiệm về người thợ
nạo vét đường biển. Nguyễn Đình Tâm thể hiện những suy tư của một đời gắn liền
với những hành trình trên đại dương xa xôi để làm những bài thơ, trường ca về
biển cả, nói lên khát vọng của con người chinh phục đại dương.
Cảng Hải Phòng ngày nào tự hào có
một Đào Cảng với những trang thơ về công nhân bốc xếp, những thủy thủ, những
chuyến hàng, thì hôm nay lại có thêm một Nguyễn Quốc Hùng với những trang văn
về thân phận người công nhân cảng nhọc nhằn trong cơ chế thị trường. Bản thân
tôi, một nhà văn trực tiếp tham gia sản xuất trên bến cảng Hải Phòng, đề tài
người lao động như một định mệnh gắn với chặng đường sáng tác của bản thân. Bởi
lẽ, như câu nói của một nhân vật trong truyện ngắn Mặt trời dưới lòng sông “tại thằng bốc vác ngửi mùi mồ hôi của nhau
còn nhiều hơn ngửi mùi mồ hôi của vợ nên mới mắc nợ nhau”, tôi mắc nợ những
con người mà mồ hôi chảy thành dòng trên lưng không khác gì vệt con sên bò trên
tấm gỗ mục. Chính sự nhiệt tâm với đề tài này đã mang lại cho tôi thành công
nhất định, từ tiểu thuyết Chuyến hàng mưa viết về những người
công nhân bến cảng thời kì chuyển từ bao cấp sang cơ chế thị trường với bao khó
khăn, nhọc nhằn, đến tiểu thuyết 720 độ
góc luân hồi viết về giai đoạn mở cửa nền kinh tế đầy biến động.
Bên cạnh đó còn có nhiều truyện ngắn phản ánh những con người lao động quả cảm,
một chút ngang tàng của người đất cảng và một cuộc sống công nhân bước đầu có sự cải thiện đáng kể trong
sự đổi thay của nền kinh tế và bộ mặt thành phố Hải Phòng đầu thế kỉ XXI.
Những nhà văn xuất thân từ công
nhân cảng Hải Phòng còn có Vũ Thúy Hồng, đắm say qua những câu thơ sâu nặng
chất suy tư về vùng đất mà nắng làm bạc thêm lưng áo người thợ và gió làm rộn
thêm tiếng còi tầu loang dài trên bến cảng.
Đêm cửa biển nghe tiếng gió xiết qua cần trục
Âm âm còi tàu loang mặt sóng
Gió thổi bạt những suy tư vụn
Thấy mình thật bé nhỏ trước dòng sông.
Còn nhiều nhà văn nữa mà bước
đường viết văn của họ gắn liền với công xưởng nhà máy, công ty, trường học… Với
tập truyện ngắn Men say của tình yêu, Dương Thị Nhụn đã khắc họa chân dung
người thợ qua những câu chuyện dung dị và cảm động. Còn tập thơ Thành
phố trái tim người thợ, Minh Trí gợi lên cảm xúc chân thành của người
công nhân trước sự vươn lên của Hải Phòng. Những tác phẩm đó của các nhà văn
Hải Phòng từng được vinh danh trong các giải thưởng về đề tài công nhân và
người lao động do Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam và Hội Nhà văn Việt Nam phối
hợp tổ chức.
Là một người làm việc lênh đênh
ngoài biển, Tuấn Anh có nhiều bài thơ, trang văn nêu bật những suy tư trăn trở
về đời sống người thợ nơi biển cả. Bùi Quý Thực, tác giả mới gần gũi với sáng
tác đề tài người lao động. Tốt nghiệp đại học hàng hải, có thời gian dài làm
cho hợp tác xã vận tải thủy Tam Bạc, đã cho ra đời những tập thơ như Sóng
phù du, Âm vang những dấu chân, Dấu hỏi câm … Thơ của Bùi Quý Thực thể
hiện sự mạnh mẽ, phóng khoáng trong câu từ nhưng cũng ẩn sâu suy tư, hướng nội.
Gió
căng buồm nơi đầu sóng
Thuyền
đi loãng cả xóm chài
Ông
già trước biển đăm chiêu
Ký
ức cuộn thành bão tố
(Ông già trước biển)
Còn nhiều các tác giả nữa như Đỗ Thị
Hồng Vân, Phạm Thùy Linh, Lương Kim
Phương, Trần Thị Lưu Ly, Cù Thị Thương, Trần Ngọc Mỹ … mà tác phẩm đa
âm, đa sắc của họ đã làm nên một diện mạo mới cho văn chương Hải Phòng. Văn
chương Hải Phòng thời kì này không còn mang tính sử thi với những đại tự sự mà
đi vào những vấn đề nhân sinh thường nhật, chuyển động cùng những biến động của
thời cuộc, con người.
Với Hội Nhà văn Hải Phòng, đề tài
công nghiệp luôn được ưu tiên khi tổ chức các trại sáng tác. Gần đây, tháng 9
năm 2019 hội đã tổ chức đi thực tế sáng tác tại khu công nghiệp Nam Cầu Kiền.
Đông đảo nhà văn tham gia như Kim Chuông, Tô Ngọc Thạch, Lưu Văn Khuê, Nguyễn
Quốc Hùng, Trần Đức Trí, Vũ Trọng Thái…
Câu
lạc bộ thơ Cung Văn hóa Lao động Hữu nghị Việt Tiệp, Hải Phòng được thành lập
đến nay vừa tròn 30 năm. CLB đã thực sự trở thành tụ điểm sinh hoạt thơ ca hàng
đầu dành cho người lao động đất cảng. Bên cạnh đó, cách đây gần hai năm, CLB
thơ người lao động Hải Phòng được thành lập và đã sinh hoạt nề nếp, quy tụ
những người lao động trong thành phố có cùng chung niềm đam mê thơ ca. Ngoài
việc truyền cảm hứng sáng tác, CLB còn là bà đỡ cho không ít tác phẩm thơ ra
đời. Từ những câu lạc bộ như thế này có điều kiện phát hiện và bồi dưỡng những
cây bút mới viết văn làm thơ về đề tài công nhân và người lao động ở Hải Phòng.
Đi qua một thời ngợi ca tụng
niệm, văn học về đề tài công nhân và người lao động hôm nay đã phản ánh trực
diện những tâm tư, trăn trở thậm chí
những bức xúc, những điều nhậy cảm mà người lao động phải nếm trải, phải đối
mặt với không ít góc khuất trong thực tiễn lao động sản xuất, cùng sinh hoạt
đời thường hiện nay. Có được những trang văn này không phải dễ nhưng những tác
phẩm ấy có được xã hội quan tâm? Câu chuyện để dẫn tới thực trạng văn học của
Hải Phòng cũng như của cả nước. Sau khi những tiểu thuyết viết về Cảng Hải
Phòng của tôi ra đời, tác giả Vũ Thúy Hồng hỏi, không sợ ban giám đốc thù à?
Không sợ. Bởi tôi chắc chắn, ban giám đốc sẽ không có ai đọc sách văn học và
nếu có vô tình đọc thì cũng cho rằng viết về ai đó, chẳng ai tự nhận cái xấu về
mình.
Thực trạng thứ nhất, văn học nước
nhà rất ít độc giả. Cái khó này không chỉ phía nhà văn có thể giải quyết được,
nó đòi hỏi sự quan tâm của toàn xã hội mà động lực thúc đẩy chính là các tổ
chức, cơ quan có thẩm quyền.
Đã lâu rồi, phong trào văn hóa
văn nghệ nhất là lĩnh vực văn học của các cơ quan xí nghiệp tại Hải Phòng không
được quan tâm. Cách đây hơn chục năm, phong trào thơ văn của Cảng Hải Phòng tuy
không còn ở đỉnh cao nhưng vẫn thường xuyên được xới xáo bằng những cuộc thi
sáng tác thơ văn và tiểu phẩm văn học với sự giúp đỡ thẩm định của Hội Nhà văn
Hải Phòng. Vài tập hợp sáng tác của công nhân được xuất bản. Nhà máy ắc quy tia
sáng cũng vậy, tác phẩm Tia sáng niềm thương tập hợp những
sáng tác thơ của công nhân có chất lượng khá. Trong những tác phẩm ấy phát hiện
ra những tác giả tiềm tàng, có những câu thơ đọng lại được với bạn đọc.
Con sóng nhỏ
nghiêng nghiêng câu hát
Chàng cần trục
khổng lồ chuyển vũ điệu không gian
(Thơ văn người công nhân
Cảng)
Em
có về cùng với tháng năm
Nghe
nắng ngại ngùng trên phiến lá
E
ấp vành môi chùm phượng vĩ
Ước
mơ nào thắp sáng tuổi hai mươi
(Tia sáng mến thương)
Các tác giả này mãi chỉ là tiềm
tàng bởi không có cú hích nào tiếp theo để họ dấn thân vào cái nghiệp văn
chương ít được quan tâm.
Thực trạng thứ hai đến từ chính
nhà văn chúng ta. Đi, đọc, viết đó là tuyên ngôn của những người viết văn.
Tuyên ngôn đó bây giờ nên viết ngược lại. Chúng ta viết bằng thứ trời đã phú
cho ta một chút khả năng về cấu tạo ngôn từ để làm nên tác phẩm. Chúng ta bây
giờ đọc không nhiều. Thực tế này chắc ai cũng thấy những chắc chẳng ai dám nhận
mình lười đọc. Còn lười đi thì không nhận cũng không thể chối nổi vì ai cũng
biết. Có đi thực tế sáng tác cũng chỉ cưỡi ô tô xem hoa và ngồi phòng lạnh nghe
báo cáo. Tại mưu sinh còn khó khăn, cơm áo không đùa với khách thơ.
Tôi nhớ, ngày tập đoàn tầu thủy
Vinashin còn đình đám, Hội Nhà văn có tổ chức đi thực tế nhà máy đóng tầu Nam
Triệu. Sau chuyến đi là những bài bút kí, tùy bút ra đời. Những tác phẩm ấy có
điểm chung là tụng ca. Cũng tại thời điểm ấy xuất hiện bài bút kí Trăn
trở một miền quê của tác giả Nguyễn Thị Toàn trên báo Văn Nghệ “Người mới
quen hỏi nhà tôi ở đâu, tôi mô tả khó hình dung nhưng khi nói tới địa danh… NAM
TRIỆU thì họ đều “À, bọn tớ đã về đó viết..”. Mấy năm trước, hình ảnh ông giám
đốc nhà máy giống như một huyền thoại. Họ thêu dệt, ca tụng….thôi thì đủ lời…..
Nhưng hậu quả họ để lại thì vô cùng nan giải! Nhà máy giờ đây gần như tê liệt.
Bao nhiêu diện tích bị bỏ hoang. Công nhân nghỉ việc ở nhà. Cũng không thể quay
về nghề cũ. Ruộng không còn, sông bãi hết….” Tôi đưa ra so sánh này để đối chứng cho thực trạng đi sáng tác và những
người trải qua thực tế.
Có mấy nhà văn
bây giờ ra tận khu chuyển tải Hạ Long ba cùng với công nhân để có được tác phẩm
như nhà thơ Nguyễn Viết Lãm với bài thơ Hạ Long, đêm bốc vác. Có mấy ai như nhà văn Nguyên Hồng “Tôi ra bến Sáu kho. Tôi sang nhà máy xi măng
… Tôi chầu chực ở cổng các nhà máy Cốt phát, Máy tơ, Máy chỉ …các bến ô tô tầu
thủy…. Tôi đến tất cả các xóm ngõ nơi đi về đông đúc của phu phen thợ thuyền để
nghe ngóng, hỏi han” (Bước đường viết văn) Chính khả năng
đi sâu thâm nhập thực tế đã tạo nên chất liệu cho những trang văn của Nguyên
Hồng lấp lánh sự sống dẫu đó là cuộc sống của những con người cần lao đầy mồ
hôi và nước mắt.
Như tôi đã đề
cập, văn học đề tài công nhân và người lao động là đề tài khó bởi nó yêu cầu
người viết phải đi nhiều, trang bị cho mình vốn sống thực tế thì mới có tác
phẩm hay. Tuy nhiên cũng phải thừa nhận, tài năng của người viết là yếu tố quan
trọng. Mặc dù mở rộng biên độ để tìm thêm tác phẩm cho đề tài này nhưng ngay cả
nơi vùng đất công nghiệp Hải Phòng, những tác phẩm đề tài công nhân và người
lao động hiện nay vẫn còn thiếu và yếu.
Những thực trạng
trên đây đều xuất phát từ đầu tư của xã hội cho sự phát triển văn học chưa được
chú trọng. Thời nào hay thể chế nào thì văn chương nghệ thuật cũng do xã hội
nuôi dưỡng, bởi nó là một trong những đứa con của “xã hội”. Sản phẩm văn chương nghệ thuật làm ra là trìu tượng, không
thể so sánh tương đương với những giá trị hàng hóa khác. Tôi rất ấn tượng về
giải pháp của nhà văn Văn Chinh trong bài tham luận tại hội thảo chuyên đề xã
hội hóa của VHNT. Ông đưa ra giải pháp, cần có luật về xã hội hóa văn nghệ. Nhà
nước có trách nhiệm tuyên truyền nhận thức cho toàn xã hội về tầm quan trọng và
lợi ích cốt lõi của văn hóa nghệ thuật. Phải luật hóa cho trách nhiệm đối với
các doanh nghiệp, yêu cầu đóng góp kinh phí tài trợ cho văn nghệ, bởi “ông giầu được là nhờ thể chế, nhờ các dự án
nhà nước dành cho”. Nhưng luật cũng cần các điều khoản nghiêm cấm nhận tài
trợ hoặc tài trợ để định hướng thẩm mĩ nhằm quảng bá cho doanh nghiệp. Chi cho
văn nghệ sĩ chân chính là chi cho lưu danh muôn thuở.
Với văn học đề
tài công nhân và người lao động nếu định hướng theo giải pháp nêu trên thì càng
thuận lợi. Bởi chúng ta có tổ chức công đoàn hoạt động ngay tại các doanh
nghiệp. Tuy nhiên, đây là giải pháp có tính lâu dài. Trước mắt, để ý tưởng Luật hóa văn hóa nghệ thuật thành hiện
thực và để có tác phẩm có chiều sâu, đến được bạn
đọc công nhân, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, cùng phối hợp với các
cấp công đoàn từ thành phố tới các cơ sở sản xuất tổ chức các cuộc thi và trao
giải thưởng cho văn học đề tài công nhân và người lao động thường xuyên hơn, bằng
hình thức đầu tư chuyên sâu cho những tác giả tiềm năng có những chuyến đi thực
tế sáng tác tại cơ sở và nghiệm thu theo giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Tác
giả phải chịu trách nhiệm về giá trị tác phẩm của mình. Tức là nhà văn không
phải viết cho xong hoặc viết không có định hướng rõ ràng, không phù hợp với
thực tế đời sống người lao động, không phù hợp với thuần phong mĩ tục và lối
sống con người Việt Nam. Những tác phẩm có chất lượng về nghệ thuật cũng như
thiết thực cho đời sống người lao động, phải có hình thức quảng bá rộng rãi
trên các phương tiện thông tin và phải được đến tận tay người công nhân bằng
hình thức tọa đàm, giao lưu ngay tại cơ sở sản xuất. Các cuộc thi này cần có
hình thức khuyến khích các tác giả trẻ, các tác giả không chuyên là người trực
tiếp sản xuất. Những trại sáng tác do các doanh nghiệp tài trợ nhằm quảng bá
hình ảnh cho doanh nghiệp đó vẫn cần thiết, bởi đây là hình thức maketing trong
kinh tế thị trường hiện nay.
Các tác giả là
hội viên Hội Nhà văn Hải Phòng tuổi đời dưới 35 như Lê Trung Cường, Trần Ngọc
Mỹ, Cù Thị Thương, Nguyễn Thị Thùy Linh nhưng đã có thành tựu trong lĩnh vực văn
học như đạt giải thưởng của Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, Tạp chí Văn nghệ
Quân đội..., Hội nhà Văn Hải Phòng nên giao cho ban nhà văn trẻ xây dựng kế
hoạch cụ thể nhưng rất cần sự đồng thuận, ủng hộ của các cấp lãnh đạo thành phố
trong việc bồi dưỡng và phát huy tài năng những tác giả này và đồng thời tìm
kiếm phát hiện những người có niềm đam mê, có khả năng về văn học trong quần
chúng lao động. Một thế hệ nhà văn mới của nền văn chương Hải Phòng sẽ thực sự
vươn cao nếu đầu tư đúng hướng
Nhà văn được nuôi dưỡng và rèn
luyện trong cuộc sống lao động, để từ đó viết lên những tác phẩm văn học về
người lao động, phục vụ cuộc sống lao động. Thực tiễn văn chương Hải Phòng bao
năm qua đã chứng minh điều đó. Cuộc đời gian khó bao nhiêu thì có bấy nhiêu sự
tri ân, khẳng định và tôn vinh những nhà văn viết về đề tài công nhân và người
lao động.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét