Chủ Nhật, 9 tháng 11, 2014

DÒNG SÔNG CHỞ KIẾP, CÂU CHUYỆN TRĂM NĂM VỀ NHỮNG KIẾP NGƯỜI

(Cầu cảng lúc hoàng hôn)

(Đọc Dòng sông chở kiếp, tiểu thuyết của Nguyễn Quốc Hùng,
NXB Hội Nhà văn, 2009)
                                                                           Lưu Văn khuê

Nguyễn Quốc Hùng là tác giả văn xuôi trẻ của Hải Phòng, cầm bút mới khoảng mười năm năm nay nhưng đã có bước tiến đáng kể với một số truyện ngắn công bố trên tạp chí Cửa Biển ( Hội Liên hiệp VHNT Hải Phòng) và tuần báo Văn Nghệ cùng các tiểu thuyết Chuyến hàng mưa ( Giải thưởng ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, 2006) và Dòng sông chở kiếp vừa mới xuất bản.
Sống gắn bó với những người công nhân và cuộc sống thành thị nên Nguyễn Quốc Hùng đã có một số thành công ở những đề tài này. Vì vậy, không khỏi bất ngờ khi Dòng sông chở kiếp lại viết về nông thôn; không những thế, còn là một nông thôn có những quãng thời gian đã trở thành quá khứ xa mà chắc chắn tác giả chỉ được biết nhờ nghe kể và đọc sách vì với tuổi mình, anh không thể chứng kiến. Bên cạnh đó, thời gian được đề cập đến đâu có ngắn. Nhụ, một nhân vật trong tiểu thuyết, lúc xuất hiện còn là người phụ nữ 30 tuổi, đến trang cuối đã là bà lão 100 tuổi tròn! Nhân vật thì trải suốt bốn thế hệ. Tất cả, được trình bày một cách tường tận với những chi tiết sinh động. Phải am hiểu về nhiều mặt đồng thời khá vững tay nghề mới có thể dồn nén được chừng ấy thời gian, sự kiện và con người vào chỉ có 350 trang sách.
Đó là chuyện mâu thuẫn truyền đời giữa hai gia đình tại làng Trằm, một làng nhỏ ở đồng bằng Bắc Bộ. Đứng đầu hai gia đình và cũng là hai họ đều là những người có địa vị cao trong làng. Tuy nhiên, cái cách để có được vị trí ấy mỗi gia đình mỗi khác: Họ Nguyễn nhờ đạo đức, còn họ Vũ là do thủ đoạn.
Câu chuyện bắt đầu từ những ngày lụt lội, cả làng phải đến trú ở đình làng chờ nước rút. Người của hai gia đình có gặp nhau ngoài đường cũng cố tránh không nhìn nhau, giờ ra vào giáp mặt, va chạm là không thể tránh khỏi. Cứ cụ đồ Cờ họ Nguyễn nói hoặc làm thế này thì thể nào lý Ngang họ Vũ cũng nói hoặc làm thế khác. Cụ Cờ càng cung kính trước thần linh bao nhiêu thì lý Ngang lại tìm cách giễu cợt điều đó bấy nhiêu. Nhưng thật oái oăm, chị đĩ Nhụ cháu dâu cụ Cờ lại lòng thòng với lý Ngang! Chẳng phải chị yêu thích gì lý Ngang vì con người hắn đụng vào đã phát khiếp, cứ lạnh nhầy nhẫy như da rắn, lại toát ra mùi hôi gián. Có điều chồng làm ăn xa vắng nhà mà chị ta lúc nào cũng thấy thèm khát! Còn lý Ngang, cái tính háu gái của hắn làng không ai lạ, hắn không chỉ dan díu với chị đĩ Nhụ mà còn với nhiều người đàn bà khác. Trong những ngày ngập lụt ấy, lý Ngang và chị đĩ Nhụ đã làm cái chuyện ấy ngay ở gậm điện thờ thành hoàng làng. Tưởng chỉ để thoả cơn khát, ai ngờ chị đĩ Nhụ lại có mang, sau khi sinh ra thằng Sông, “chắt đích tôn” của cụ Cờ! Sau này thằng Sông gây ra đủ chuyện tai quái, khi bé thì ăn cắp áo quan tri khiến cụ Cờ phải đem trả, trịnh trọng đặt áo trên khay như dâng lễ vật để tạ tội; lớn lên ăn cắp tiền người ta; rượu vào say bị cháu lý Ngà đánh mà không biết nhục, lại còn mách nơi hai chú nó (ông Sơn và ông Toản) trốn để lý Ngà dẫn lính đến bắt. Họ Nguyễn đối nhân xử thế tốt đẹp, bao dung, nhân ái bao nhiêu thì họ Vũ hẹp hòi, xấu xa bấy nhiêu, ngay hòn máu lạc loài là thằng Sông cũng vậy. Nó càng lớn càng giống lý Ngang từ mặt mũi, dáng người đến tính nết. Nó là thứ nghiệt chướng (tác giả gọi là nghiệt chướng chứ không phải nghiệp chướng). Vậy, nghiệt chướng của cuộc đời là do dục vọng của con người gây ra.
Sau lụt, huyện cho khơi lại sông Vàng để  tránh cho làng Trằm khỏi cái nạn lúc nước trắng đồng khi lại cạn khô. Đến chuyện như vậy lý Ngang cũng phá để dẫn tới cái chết của cụ đồ Cờ. Nhưng cái chết của cụ khiến mọi người thêm kính trọng: Cụ ra giữa sông chắp tay can ngăn hai làng và cứ thế chết cứng ở tư thế ngồi xếp bằng tròn dưới sông. Còn cái chết của lý Ngang thật nhục nhã, hắn như bị ma làm đến điên dại nên cởi quần áo, trần truồng rúc vào bụi dứa dại cho gai cào khắp người và cứ nhồng nhỗng như vậy mà chết bên bờ sông.
Cách mạng tháng Tám rồi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ. Phía gia đình họ Nguyễn, thế hệ mới nhiều người tham gia cách mạng và kháng chiến. Còn con lý Ngang là lý Ngà nối đời làm lý trưởng đã dẫn địch về làng và họ Nguyễn đến 4 người bị bắn chết, Sơn con út ông tổng Cò bị đi đầy Côn Đảo.
Những trang cuối của tiểu thuyết là hình ảnh sông Vàng, con sông gắn bó với bao kiếp người làng Trằm, nay không là sông nữa mà biến thành hai con mương chạy song song vì bị chia làm đôi bởi bờ đất ở giữa với lý do sông bên nào thì làng bên ấy dùng. Sự hằn thù cách đây hàng chục năm giữa hai làng do lý Ngang gây nên tới lúc này mới thật trắng trợn. Có con, ông Sơn đặt tên con gái là Ngà với thâm ý lý Ngà tuy về tuổi tác là cha chú cái Ngà nhưng chỉ đáng mặt làm con ông! Đúng lúc Vương con trai lý Ngà xin vào Đảng, Bí thư chi bộ thôn Trằm và ông đảng uỷ viên xã mang theo con gà trống thiến và đùm gạo nếp đến nhà ông Sơn, muốn xin xác nhận ngày trước ông bị bắt không liên quan gì đến lý Ngà. Mắt ông Sơn long lên dữ tợn: “Chúng mày lạy được thằng Ngà ở quê thì bây giờ có dám lạy con ngà này không! Chúng mày đủ gan thì tao xác nhận cho. Nếu không làm được thì bước!” Từ đó cho thấy cái cách con lý Ngà xin vào Đảng để hòng thăng quan tiến chức không khác gì cách ông cha hắn từng làm.
Chuyện mâu thuẫn dòng họ ở một số vùng nông thôn giờ đây tuy không nhiều nhưng rải rác đâu đó vẫn còn, Nguyễn Quốc Hùng góp vào một hiện tượng và thử tìm nguyên nhân, thông qua lý giải của ông tổng Cò. “Phải chăng mỗi dòng họ đều có tính cách riêng. Ông là người không thể nói được một câu xu nịnh mà không thấy ngượng mồm, thấy mình hèn mọn trước người được nghe những lời xu nịnh ấy. Còn gia đình nhà lý Ngang, từ dáng đi bình thường cũng khúm na khúm núm, vai co rụt vào như con giun uốn mình chứ chưa nói đến chuyện chỉ vì khéo luồn lọt mà có được chức lý trưởng truyền đến ba đời.”. Người đọc chỉ băn khoăn, chẳng lẽ suốt trăm năm cái họ Vũ kia, đời lý Ngao, lý Ngang khỏi phải nói, đến con cháu thời nay vẫn không thay đổi tính nết chút nào? Thậm chí thằng Sông, bao nhiêu năm sống với gia đình họ Nguyễn tốt đẹp, gần mực thì đen, gần đèn thì sáng, nó “gần đèn” mà chẳng hề sáng lên tí nào! Sự có mặt của thằng Sông trên đời chỉ có mình bà Nhụ biết, bà đã cố giấu tung tích của nó để nó được sống làm người. Sau này có người con ông Sơn biết nhưng liệu anh ta sẽ xử sự như thế nào trước việc người đứng đầu họ nhà mình lại là con của kẻ thù! Tiểu thuyết không đòi hỏi tác giả phải giải quyết sự việc một cách trọn vẹn, đúng với định hướng.
Tìm được nội dung hoàn toàn mới cho tiểu thuyết là một vấn đề cực kỳ khó ngay cả với tác giả có tên tuổi nên góp được vào cái chung một câu chuyện, một hiện tượng đời sống xã hội như trong Dòng sông chở kiếp cũng là đáng kể. Cùng với đó là khắc hoạ chân dung các thế hệ và giúp người đọc hiểu được quyền lực làng xã ngày trước. Cũng không thể đòi hỏi tác giả những độc đáo ở kỹ thuật tự sự hay ngôn ngữ thể hiện; anh tuân thủ cách kể chuyện truyền thống với kết cấu trục thời gian, kể khá hấp dẫn và rành mạch. Tác giả hiểu những chuyện ngày trước ở nông thôn, nắm được phong tục tập quán, cuộc sống và tính cách người nông dân cũng như lời ăn tiếng nói của họ. Dòng sông chở kiếp có những chi tiết hay, sinh động, ít nhiều có những cái mới lạ.
Cuối cùng là tên tác phẩm. Dòng sông chở kiếp – cái tên và nội dung hướng đến cái ý dòng sông gắn với những kiếp người, tuy nhiên có lúc tác giả dường như quên mất định hướng ấy của mình, hay nói cách khác tên tác phẩm chưa đủ khái quát nội dung. Tất nhiên đây là vấn đề khó. Người viết bao giờ cũng có đến năm bảy cái tên để chọn lấy một tên mà chưa chắc đã bằng lòng.

Nhìn chung Dòng sông chở kiếp là tiểu thuyết đáng đọc.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét