Hải Phòng, mảnh đất của thợ thuyền. Những con người nơi
đây lam lũ, oằn mình qua giông bão và khổ đau. Đó là lớp nhân vật đáng trân
trọng trên những trang văn Nguyên Hồng, nhà văn của những người cùng khổ. Hải
Phòng hơn một thế kỉ qua là đô thị công nghiệp, với tiếng còi tầu rền vang trên
dòng sông Cấm, với nhà máy xi măng ống khói vươn cao khát vọng, với những nhà
máy cơ khí đi đầu trong công cuộc xây dựng đất nước như đóng dầu Bạch Đằng, cơ
khí Duyên Hải... Con người Hải Phòng thì quả cảm, phóng khoáng nhưng cũng kiên
gan những năm khói lửa chiến tranh. Những ai từng một lần qua Hải Phòng, đều có
tâm trạng giống như tâm trạng của nhà thơ Nguyễn Đình Thi qua bài thơ “Nhớ”:
“Hải Phòng ơi đêm nay bỗng nhớ
Tiếng còi tầu sông Cấm chiều hôm”
Thi sĩ Lưu Quang Vũ, sau những
năm tháng sống và gắn bó với Hải Phòng, đã vẽ lên bức tranh bằng thơ u buồn mà
tuyệt đẹp về thành phố cảng bụi bặm của những người công nhân khuân vác, những
thủy thủ tầu viễn dương yêu lao động cuồng nhiệt mê say trong bài thơ “Những
người bạn khuân vác”. Ở trường ca Những người trên cửa biển nhà thơ
kiêm nhạc sĩ đa tài Văn Cao cho người đọc thấy được cuộc sống của những người
thợ thành phố Cảng khó nhọc với những câu thơ hay đến nao lòng.
“Mỗi
người dân Hải Phòng thật kiếm ăn từ nhỏ
Mỗi
người dân Hải Phòng đều biết đổ mồ hôi”
Lại nói về Nguyên Hồng, ông không
chỉ có tác phẩm về người lao động Hải Phòng cho riêng mình mà ông còn là người
thầy truyền thụ niềm đam mê và kiến thức nghề văn cho những nhà văn Hải Phòng
xuất thân từ người thợ như Thanh Tùng, Đào Cảng, Trần Lưu, Thi Hoàng, Nguyễn
Tùng Linh, Nguyễn Thụy Kha, Vũ Hữu Ái … Lớp nhà văn thời kì những năm khói lửa
chiến tranh là những đại diện ưu tú không chỉ với văn học Hải Phòng mà còn là
những người đặt viên gạch đầu tiên xây lên ngôi nhà của văn học đề tài công
nhân và người lao động trên cả nước.
Trong bài thơ “Phố
cửa biển”, Thanh Tùng có những câu thơ hừng hực chất thợ thuyền: Tôi
bước lẫn những tấm lưng mồ hôi hầm hập/ Thấy mặn lòng, từng vết muối trắng vai
ai
Bạn bè gọi Đào Cảng là “Nhà thơ
của thợ”. Trong thơ ông hình ảnh những người thợ Việt Nam của một thời kì gian
khổ nhưng đầy lạc quan vừa đánh giặc vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thơ của Thi Hoàng trầm tư trong
cái nhìn đầy triết luận: Mũi con tầu tinh
anh như con mắt / Từ cửa sông này nhìn suốt đại dương (Nhịp sóng)
Truyện dài Những người mở đường của Vũ Hữu Ái bằng những câu chữ đầy chất thơ
tràn lên từ cuộc sống trẻ trung, từ những cảnh lao động dưới mưa rừng mù mịt,
ăn cháo trong đêm bàn chuyện tương lai. Rồi một Trần Lưu với những câu đầy chất
thợ. Một Nguyễn Tùng Linh tạc hình ảnh người thợ bằng những câu thơ vâm váp.
Trong những ngày đánh Mĩ, mỗi câu
thơ, đoạn văn của đội ngũ nhà văn Hải Phòng đã tạo dựng được chân dung một
thành phố cửa biển sừng sững với những người công nhân vai sắt chân đồng làm
việc hết mình, sống hết mình.
Sau 1975, Hải Phòng cùng cả nước
trăn trở những ngày đầu bước vào thời kì xây dựng nền kinh tế. Văn học công
nhân và người lao động Hải Phòng giai đoạn này có phần như chững lại. Lẽ tự
nhiên bởi các nhà văn lớp chống Mĩ tuổi đã cao, nội lực giảm sút, chỉ còn nhà
thơ Thi Hoàng vẫn giữ được phong độ với trường ca Gọi nhau qua vách núi –
Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam và những tập thơ giá trị khác. Lớp nhà văn mới
hình thành. Lưu Văn Khuê lăn lộn với thực tiễn cuộc sống, gần đây ông có những
tiểu thuyết về đề tài lịch sử như Mạc Đăng Dung hay Đấu
trường sông nước viết về nhà tư sản Bạch Thái Bưởi. Phạm Ngà với những
trang thơ chau chuốt, nồng nàn hơi thở cuộc sống công nghiệp, “Không gian sôi mãi tiếng ve sôi”. Trần
Tự thực sự là một “nhà văn công nhân”. Câu chữ của ông gắn chặt với lao động,
với máy móc, xe cộ, búa đe … thông qua những tiểu thuyết Miền khơi, Biển trắng, Giữa hai
chiều gió… Từ thực tiễn đời sống người thợ của mình, Lương Văn Chi,
Đinh Quyền, Huy Liệu, Nguyễn Xuân Nghĩa, Nguyễn Mạnh Quý, Nguyễn Minh Dậu… dốc
toàn tâm toàn lực lên những trang truyện ngắn về thân phận người lao động, cho
ra đời những trang văn ngồn ngộn chi tiết đời thực của người công nhân thời kì
xóa bỏ bao cấp, tiếp cận dần với cơ chế thị trường đầy khốc liệt.