Thứ Năm, 18 tháng 12, 2014

NGHĨ SUY SAU KHI ĐỌC "DÒNG SÔNG CHỞ KIẾP"

(Hoàng hôn trên sông Cấm)



                                                                                                          Ngọc Châu
                         (Hội viên Hội nhà văn HP)

DÒNG SÔNG CHỞ KIẾP là cuốn tiểu thuyết, cũng có thể coi là cuốn sử biên niên về một miền quê và ḍòng họ của chính tác giả (nhà văn Nguyến Quốc Hùng, hội viên Hội Nhà Văn Hải Pḥòng). Câu chuyện dẫn chúng ta đi qua một thế kỉ - quá nhiều đau thương và biến động - của dân tộc Việt trong giai đoạn phải oằn oại một cách quật cường để tự giải phóng mình khỏi gông kìm của xã hội phong kiến và thực dân, đế quốc.
Cuốn truyện xoay quanh hai gia tộc có uy thế hơn cả trong một làng quê nghèo nàn, chiêm khê mùa thối. Cụ Cờ là một cựu Chánh tổng thương dân nhưng tính tình cương trực khảng khái nên nhanh bị mất chức nhưng bao giờ cũng có uy tín đối với trong làng ngoài xóm. Chính cụ và con trai là Tổng Cò đă tổ chức việc vớt gỗ từ rừng trôi về trong cơn lụt, để xây đình làng và khơi đào nhánh sông Vàng cho làng Trằm thoát khỏi cảnh ngập lụt trắng băng vào mùa mưa, lại cằn kiệt đến không có nước mà uống vào mùa khô hạn. Cụ Cờ đă trầm mình tuẫn tiết để ngăn cản cuộc đánh lộn giữa hai làng ven sông, nhờ vậy con sông Vàng mới được khai thông, mang lại lợi ích cho làng Trằm, cũng đóng luôn vai trò "dòng sông chở kiếp" đối với bao nhiêu con người có cuộc đời bám quanh dòng chảy của nhánh sông bé nhỏ này.
Đại diện cho gia tộc thứ hai là nhà Lí Ngao với con trai là Lí Ngang. Tham lam, ganh ghét, nham hiểm là đặc trưng nên bao giờ gia tộc này cũng có chuyện thù hằn hoặc đố kị với gia tộc cụ cố Cờ. Lí Ngang cố tình bày đặt mưu mô để cản trở hoặc phá đám những việc làm mang tính tốt lành của gia tộc kia, thậm chí còn tìm cơ hội để "gieo giống" vào cô cháu dâu lầm lỡ của cụ cố Cờ.
Dòng sông chở kiếp tiếp tục là nơi chứng kiến hoặc tham gia vào vận mệnh của những người dân làng Trằm khốn khó với những cảnh rừng mất, nhà mất, chợ tan, nhà tan kéo dài từ trước cách mạng tháng Tám, qua giai đoạn chín năm đánh Pháp cho đến khi toàn bộ quân đội thực dân Pháp phải rút khỏi Bắc Việt. Thế hệ tiếp theo với đại diện là Tổng Cò, Lí Ngà và con cháu của cả hai nhà tiếp tục hục hặc, tranh giành ngôi thứ, vật lộn mưu sinh, kẻ theo Pháp, người ủng hộ Việt Minh, sống và chết bên nhánh sông Vàng
Phần tiếp theo của cuốn truyện nói về những năm gian truân của anh bộ đội Sơn, con của Tổng Cò, cháu cụ cố Cờ. Theo Việt Minh đánh Pháp, bị phe Lí Ngà (con của Lí Ngang) chỉ điểm nên bị thương, bị bắt rồi bị tù. Từ Côn Đảo trở về chuyển ngành làm một cán bộ phó Phòng của sở Thương Nghiệp, lại phải ra ṭa vì có kẻ đổ tội làm cháy nhà xưởng để cố tình hãm hại, may mà sau thời gian ngắn ở trong tù đă được minh oan, trở về thăm lại làng Trằm.
Những trang cuối nói về tác giả cuốn sách, hậu duệ của cụ Cố Cờ, luôn tận tụy với nghề nghiệp và say mê với văn chương, xứng đáng với cụ nội là người đă có công xây ngôi đình cho làng Trằm và khai thông nhánh sông Vàng. Chính tác giả với con mắt của một văn nhân đã hình tượng hóa nhánh sông mà cụ và ông mình khai thông, thành dòng sông chở kiếp với bao nhiêu con người của làng quê ấy.

       Gấp cuốn sách lại, đầu tiên là tôi thấy cảm phục về sự kiên trì, cần cù sáng tạo với lòng yêu văn chương của một nhà văn công nhân, thuộc lớp trẻ so với lớp của các nhà văn, nhà thơ Phạm Ngà, Lưu Văn Khuê...  hiện nay.
       Phải nói rằng cuốn tiểu thuyết D̉NG SÔNG CHỞ KIẾP của Nguyễn Quốc Hùng có rất nhiều cái được. Những cái được đó thể hiện tài năng cũng như độ chín của thế hệ kế tiếp lớp già (đã có phần nào bị lão hóa) chúng tôi.
1- Xét về văn phong:
Đạt được độ chín của một nhà văn, biết quan sát và sử dụng từ ngữ hết sức tinh tế.
Ví dụ như khi tả cảnh xóm quê:
       "Ngọn gió mùa đã trở về mơn man đùa giỡn trên đầu những đám lá bưởi. Màu xanh bợt bạt dần. Những trái chín mọng đang bị cái lạnh đầu mùa thổi cho úa vàng. Mùi rơm khô hăng hắc ùa cùng ngọn gió chạy dọc theo con đường sắt..." (tr. 64)
       Tả cảnh giông gió:
       Phía cánh Phệ, những khối mây khổng lồ như từ sau rặng tre xô đẩy nhau đùn lên xây đắp thành một bờ tường thành đen đặc một góc trời. Bầu trời như bị sức nặng của bức thành mây sắp kéo lật nhào xuống cánh đồng. Những tia chớp sáng xanh nhoáng nhoàng như lưỡi gươm vung lên, gắng sức xẻ đôi rặng tre. Tiếng sấm rền như tiếng đoàn quân reo hò... (tr. 136)
Tả mưa:
Những sợi mưa như những cây roi dài vô tận, thật mềm mại trong tay ông giời. Nhưng cũng thật ác nghiệt bởi ông đang có nỗi tức giận, phải quật vung vãi để hành hạ trần gian cho hả. Vi vút, rào rạo, ùng ục, đất trời cuộn sôi lên những âm thanh của gió rít, của mưa quất, của cây cối vật vã... (204)
Tả người vợ nông thôn thức dậy sau đêm tân hôn:
"Đĩ Thị ngượng ngùng không dám nhìn lâu vào khuôn mặt vuông vắn chất phác của chồng đang chìm trong giấc ngủ sâu. Cô quay ra nhìn những vệt sáng đang lách qua khe cửa, lắng nghe tiếng giọt sương nhỏ tí tách xuống mặt sân, có con chào mào giật mình tỉnh giấc kêu quẹt quẹt như cậy bong chiếc hộp tĩnh lặng của buổi sớm mai, nhớ lại chuyện đêm qua mỉm cười một mình, hạnh phúc..."(tr.118)
Dễ dàng nhận thấy rằng văn của Nguyễn Quốc Hùng chân thật nhưng đầy sự khéo léo, óng chuốt. Tác giả lớn lên và sống ở thành phố nhưng không hề xa lạ với chốn quê.
2- Về cốt truyện:  
       Tác giả sử dụng biên niên sử của dòng họ mình rọi lại một khoảng thời gian khá dài, có thể coi là điển hình của nông thôn nước Việt, biết sử dụng những cảnh thần bí dựa trên tín ngưỡng, lẫn hiện tượng thiên nhiên đặc biệt để khéo léo tạo sự hấp dẫn cho cuốn sách.
       3- Về công việc sáng tác và niềm say mê của nhà văn:
        Hoàn thành cuốn truyện 355 trang in chữ nhỏ và dày, đến một trăm ba mươi ngàn từ, mạch lạc và đầy đủ dữ liệu trong vòng hai năm, chứng tỏ Nguyễn Quốc Hùng là một tác giả viết rất khỏe và giàu nghị lực.
Nếu không đủ niềm say mê tinh thần trách nhiệm với văn chương cũng như với cuộc sống thì một nhà văn-công nhân không thể hoàn thành một tác phẩm dài như "Dòng sông chở kiếp" trong thời gian như thế. Điều đó là một sự khẳng định rõ ràng về những cái được của tác phẩm.
*
*     *
       Tuy nhiên Hội Nhà văn Hải Phòng chúng ta tổ chức một cuộc hội thảo không chỉ nhằm mục đích khen nịnh hay động viên nhau, vậy nên tôi cũng có một số nhận xét khác về cuốn tiểu thuyết "Dòng sông chở kiếp"
a- Về thủ pháp viết truyện:
Phải thật thà mà nói rằng, việc đọc hết cuốn truyện hơn một trăm ba mươi ngàn từ của Nguyễn Quốc Hùng yêu cầu phải có một sự kiên nhẫn khá cao của mỗi độc giả. Là do thủ pháp viết còn có vấn đề mà tôi xin nêu dưới đây:
- Các đoạn văn quá dài, gây mỏi mệt và làm giảm dần hứng thú đối với người đọc. Có những đoạn văn tới trên một trang (khoảng 450 từ) mới xuống dòng, có đoạn chiếm nửa trang, còn độ dài một phần ba trang thì khá nhiều. Cũng cần nói rằng những đoạn văn dài như vậy không phải là không thể chia cắt mà vẫn đảm bảo mạch của câu chuyện liên tục và hấp dẫn.
- Tác giả sử dụng nhiều tình tiết một cách tham lam, khiến người đọc thường xuyên bị chuyển từ chuyện nọ sang chuyện kia, dẫn dắt dài dòng mà hiếm những tình tiết chính, (gọi là tình tiết đắt) để người đọc bị lôi cuốn theo từng trang. Từ đầu đến trang 63, khoảng 24 ngàn từ, bằng cỡ 10 truyện ngắn rồi, mới chỉ nêu được một số quan hệ giữa hai dòng họ được coi là thủ lĩnh của làng Trằm. Các phần khác cũng tương tự như vậy.
b - Về phong cách viết truyện:
- Cách bố cục chưa thật phù hợp với thực tế cuộc sống của thời đại.
Người đưa ra tham luận này không phải là một tiểu thuyết gia, nhưng là một dịch giả từ khá lâu rồi, cũng ham đọc sách từ nhỏ nên được thưởng thức nhiều cuốn tiểu thuyết cả trong và ngoài nước. Nhân dịp Hội Nhà Văn HP tổ chức hội thảo xin mạn phép lạm bàn mấy điều về thủ pháp viết tiểu thuyết (không với riêng cuốn DÒNG SÔNG CHỞ KIẾP của tác giả Nguyễn Quốc Hùng) như sau:
Chúng ta đang sống trong một thời đại hết sức khẩn trương, có nhiều công việc và thú vui khác cuốn hút mọi lớp người trong xã hội. Vậy nên người ta sẽ ngại ngần khi cầm lên một cuốn truyện kín những chữ, dẫn dắt dài dòng. Ngày xưa người đọc với tâm hồn thư thái, có thời gian để đọc sách dễ dàng bị Vich-to Huy-gô đưa vào mê cung của hệ thống cống ngầm Pa-ri, kể mọi sự tích, điển cố của hệ thống ngầm này, cho đến bao giờ gặp cửa ra cũng được. Bây giờ thì người ta sẽ bỏ qua ngay chương ấy để xem sau khi tham gia cuộc khởi nghĩa trên chiến lũy, anh chàng Mariuyt bị thương còn sống hay đã chết, có lấy được Codet hay không.
Đặc trưng của cuộc sống trong thế khi 21 là như vậy, nên các tác giả ngày nay viết tiểu thuyết rất gọn, sách của họ thường gồm những chương hồi ngắn, câu và đoạn văn không quá dài, mặt khác lại chọn những tình tiết rất hấp dẫn khiến người đọc không cảm thấy sốt ruột. Dù có công việc nên phải gấp cuốn truyện lại nhưng khi có thời gian người ta lại cầm lên đọc tiếp một cách dễ dàng, không cần lật giở những trang đã qua để xem tại sao lại có nhân vật này, trước đây anh ta đă làm những chuyện gì... v...v...
1.           Ví dụ cụ thể hơn ta thấy người đọc ngày nay ưa tiểu thuyết trinh thám hình sự của James Hadley Chase hơn của Agatha Christine vì đọc truyện Agatha cũng giống như đọc  một số truyện phản gián Liên Xô trước đây, chỉ cần bỏ qua một chi tiết đã có thể không hiểu nổi sự thành công hay thất bại của nhân vật ở phần sau, trong khi cuốn truyện của James Chase hay Sidney Sheldon có bị trẻ con xé đi một hai trang, người ta vẫn đọc tiếp được một cách thoải mái. Với các thể loại tiểu thuyết khác cũng đều có xu hướng như thế cả.
- Chưa lưu tâm đúng mức đến yếu tố bán được hay không bán được của cuốn sách mình định viết ra.
Từ ngày thành lập Hội Văn nghệ Hải Phòng đến nay, có lẽ chỉ có tiểu thuyết của vị Chủ tịch đầu tiên của Hội (nhà văn Nguyên Hồng) là bán chạy, được tái bản nhiều lần nhất (theo cả cơ chế bao cấp lẫn thị trường), các nhà văn tiếp theo của Hải Pḥng không ai có thể so bì.
Đã là một nhà viết tiểu thuyết tất nhiên ai cũng nghĩ đến chuyện cuốn sách mình chuẩn bị viết sẽ có đầu ra như thế nào, khác nhau chăng chỉ ở chỗ nghĩ ít hay nghĩ nhiều về vấn đề đó mà thôi.
Cái thời hoàng kim với những cơ quan chủ quản tìm gặp tác giả đặt viết sách (lịch sử, tư liệu, hồi kí hay tiểu thuyết về một nhân vật trung tâm nào đó) rồi bao tiêu trọn gói để phát cho các đợn vị trực thuộc của họ sau khi viết xong có lẽ đã qua rồi. Người viết tiểu thuyết ngày nay bắt buộc phải quan tâm đến thị hiếu của thị trường xuất bản, nên khi bắt đầu cầm bút đã phải nghĩ đến chuyện tiểu thuyết của mình viết ra sẽ được đối tượng nào tìm đọc, nhà xuất bản nào sẵn sàng nhận in, từ đó sẽ chọn chủ đề, văn phong thích hợp cho đứa con chuẩn bị ra đời.
Hiện thì còn nhiều nhiều nhà văn của Hải Phòng chúng ta cứ thấy trong tâm bị thôi thúc về vấn đề gì đó là cầm lấy bút. Viết là một cách để san sẻ với người khác, để trả nợ cuộc đời, thậm chí chỉ để có đủ số đầu sách theo qui định khi muốn xin vào Hội Nhà Văn (trung ương hay địa phương) mà thôi. Sau khi viết xong mới gửi bản thảo đi các nhà xuất bản để tìm đầu ra, nhiều trường hợp phải dựa vào nguồn tài trợ xuất bản thì sách mới có thể được in ra dăm bảy trăm cuốn để tặng bạn bè là chính.
Tất nhiên trên đây chỉ là nhận xét và lạm bàn của cá nhân tôi. Các anh chị tham dự hội thảo sẽ có những quan điểm khác nhưng khi nêu vấn đề này thực lòng tôi mong rằng, Hải Phòng chúng ta rồi sẽ có những tác phẩm được in ra hàng chục ngàn bản như của các nhà văn Nguyễn Ngọc Tư (Cà Mau) hay Nguyễn Nhật Ánh (Hồ Chí Minh) và một số nhà văn có sách bán chạy khác.
Tham luận này xin được kết thúc ở đây. Rất mong được nghe những cao đàm của các quí hữu.
                                                                                                 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét