Thứ Hai, 11 tháng 11, 2019

MỘ ĐÁ NGANG LƯNG TRỜI – SỰ KHỐC LIỆT KHÔNG DỪNG NƠI CHIẾN TUYẾN - Đặng Thị Thúy



Mộ đá ngang lưng trời là cuốn tiểu thuyết xuất bản năm 2018 của Nhà văn Nguyễn Quốc Hùng. Cuốn sách được viết lên bằng chính ký ức của anh và đồng đội– những người đã “từng có hơn ba năm nằm hầm, nằm hang, chốt giữ đường biên giới với nhau”, cùng kề vai sát cánh bên nhau để chiến đấu chống quân xâm lược, giữ vững sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia trong cuộc chiến tranh biên giới tại mặt trận Vị Xuyên – Hà Giang hơn ba mươi năm trước.
Câu chuyệnđược mở đầu bằng chi tiết thực tại, khi tác giả thoáng bắt gặp bóng dáng người bạn chiến đấu,thoắt hiện ra rồi lại thoắt mất hút trên hè phố nườm nượp người lại qua. Hỏi thăm để tìm thì không ai biết. Không biết bởi giữa bao bộn bề hối hả của cuộc mưu sinh này, chẳng ai có thời gian để mà quan tâm đến một kẻ “trông như thằng nghiện”, dẫu có biện  minh rằng anh ta là  “lính chiến” thì cũng chẳng ai tin,bởi giữa thời bình này, tuổi trẻ như thế ấy thì biết gì đến chiến tranh với chiến đấu mà gọi là lính chiến. Cái chi tiết tìm người bạn chiến đấu (người mà sau này được đặt tên là Hoàng “dở” trong truyện) đã làm cho người đọc bị kích thích trí tò mò ngay từ những dòng chữ đầu tiên. Và phải đến tận khi đọc hết toàn bộ cuốn sách rồi, người ta mới hiểu rằng, đó hoặc là chi tiết không có thật, hoặc do tác giả bị ám ảnh quá sâu sắc từ ký ức khốc liệt của cuộc chiến mà “nhìn gà hóa cuốc”.
Toàn bộ câu chuyện là sự hồi tưởng. Sự hồi tưởng bắt đầu bằng tiếng nổ, tiếp diễn bằng tiếng nổ và kết thúc cũng bằng tiếng nổ. Đầu tiên là loạt tiếng nổ chát chúa, dồn dập vang lên giữa đêm tối mịt mùng khi chuyến xe tải quân chưa lên tới làng Ping. Bất ngờ đến nỗi Huy còn không kịp nhận biết nó là tiếng gì, nó phát ra từ đâu. Nhưng Huy biết chắc rằng chúng không phải là tiếng sấm rền của một trận bão biển, sự rung chuyển không phải là những lắc lư chao đảo giữa các đợt sóng lừng mà anh từng trải qua trong những tháng ngày đi tàu vượt đai dương. Từng loạt “tiếng nổ trồi từ dưới lòng đất lên” cùng sự rung chuyển và đá bay rào rào mãi mới khiến Huy kịp hiểu:đây là chiến trường của một cuộc chiến thực sự. Những tiếng nổ dày đặc với tần suất, âm thanh khác nhau vang lên suốt chiều dài của câu chuyện và theo diễn tiến của các trận đánh. Ròng rã ngày qua ngày, đêm nối đêm cùng đồng đội quần thảo với giặc trên các điểm cao, Huy dần phân biệt tiếng nổ nào là của vũ khí nào, nó phát ra từ đâu. Quen và nhạy đến mức, cả khi xuất ngũ về nhà rồi, nghe tiếng nổ bất ngờ vang lên, Huy còn giật bắn, lao qua người bố và nhận biết ngay đó là bộc phá. Những tiếng nổ trở thành nỗi ám ảnh không chỉ đối với nhân vật trong truyện mà còn với cả người đọc. Bởi vì, cho đến tận cuối truyện, khi thời gian đã trôi qua đến mấy chục năm rồi, Huy vẫn còn bị ám ảnh mãi. Đấy là khi nghe tiếng nổ, không phải tiếng đạn pháo của trận chiến mà là tiếng nổ tưng bừng của pháo hoa mừng ngày lễ, thì thay vì nó mang đến cho Huy cảm giác hân hoan vui vẻ như bao người thì nó lại gợi nhớ trong anh ký ức về cuộc chiến. Nólàm cho anh khóc, càng cố kìm nén thì nén thì nước mắt càng trào ra. Và nó cũng khiến cho độc giả khi đọc đến đoạn đó cũng không khỏi cay mắt, nghẹn lòng.
Cuộc chiến được hồi tưởng trong câu chuyện chính là cuộc chiến vệ quốc trên chiến trường Hà Giangnhững năm 1979 – 1984. Ấy là một cuộc chiến cực kỳ khốc liệt. Sự khốc liệt được miêu tả một cách rõ nét qua từng trang viết. Nó cho ta thấy toàn cảnh của một chiến trường với tầng tầng lớp lớp đạn nã, pháo vây. Chiến trường là những vách đá cheo leo sắc nhọn và những trận chiến đấu ác liệt. Mục tiêu là giành lại các điểm cao. Loạt người này xông lên, pháo dập ngã xuống, loạt khác lại xông lên. Khốc liệt đến nỗi “Những thân hình của đồng đội bị quét đổ sập xuống. Một làn đạn như chiếc cưa phạt đổ những thân cây”, vì thế mà “đại đội được bổ sung mười tám lính Hải Phòng thì nay còn có bốn”. Vì thế mà “Ra đi một đại đội, trở về vẻn vẹn còn có hơn một tiểu đội”. Khốc liệt đến nỗi những bữa ăn tranh thủ cũng bị gián đoạn. Cả nỗi nhớ nhà, nhớ mẹ, nhớ người bạn gái yêu mà chưa kịp ngỏ lời cũng bị gián đoạn bởi những loạt đạn pháo liên hồi. Những nhớ nhung ấy cũng chỉ thoạt đến chớp nhoáng như để tìm sự cân bằng về tâm lý, để xua đi những ám ảnh về sự chết chóc đang bủa vây:người thì bị đạn xé toác lồng ngực, người thì thân xác bị đạn xé nát, người bị mảnh pháo phạt mất nửa mặt,có người hy sinh rồi mà đồng đội chỉ còn tìm thấy một cánh tay, và có cả những người, sau loạt đạn pháo thì không còn gì nữa. Máu chảy thấm xuống làm nhão cả đất. Sau những trận huyết chiến, những người lính sống sót tìm kiếm đồng đội đã hy sinh của mình, nhưng cả tuần “cũng chỉ mang về được một tử sỹ nguyên vẹn hình hài, còn đâu là mấy túi ni lông chẳng biết thi thể của ai”.Họ đành chôn chung những người đó vào một chỗ “Lính tráng với nhau cả, nằm chung hầm, chung hang, chung giường với nhau quen rồi”.Nếu có ai chưa từng nghe, chưa từng biết về những tháng ngày khốc liệt trên chiến trường Vị Xuyên năm ấy, thì câu chuyện này chính là mộtcuốn phim chân thực giúp họ hiểu, mường tượng về nó một cách cụ thể và rõ ràng. 
Tôi thích cách miêu tả và khắc họa nhân vật của Nguyễn Quốc Hùng. Thông qua việc miêu tả nhân vật chủ yếu qua hành động, khai thác diễn biến tâm lý của nhân vật trong từng tình huống cụ thể và theo diễn tiến ác liệt của cuộc chiến, anh đã lần lượt để người đọc tiếp cận với các nhân vật và hiểu cuộc đời của họ một cách tự nhiên nhất. Hoàng “dở” là một người vốn có tiền sử bệnh tâm thần, tính nhát, sợ manhưng vẫn bị bố và cán bộ phường bắt phải đi nghĩa vụ quân sự. Lúc mới lên chiến trường, lúc nào cũng bám chặt Huy “như đứa trẻ sợ lạc mẹ khi đến một nơi xa lạ, nguy hiểm”. Thế rồi, những trận đánh khiến Hoàng dần khôn ngoan, nhanh nhẹn và biến anh thành một người lính anh dũng, can trường. May mắn trở về từ cuộc chiến, trước khi rời trận địa, Hoàng đã quỳ xuống vái tám mươi tư vái từ biệt những đồng đội cùng trung đoàn với mình, những người đã vĩnh viễn nằm lại nơi ấy.
Huy –nhân vật chính của truyện-  được tác giả khai thác và miêu tả qua diễn biến tâm lý rõ nét nhất. Huy cũng như những chàng trai Hải Phòng khác, nhập ngũ với mục đích là thực hiện nghĩa vụ quân sự của một thanh niên giữa thời bình, rèn luyện trong quân ngũ 3 năm rồi quay về tiếp tục làm thủy thủ hoặc làm công nhân. Nhưng sau thời gian huấn luyện, anh cùng mọi người mới biết là Hà Giang đang có biến và họ được lệnh điều động lên chiến tuyến. Đến lúc ấy, họ mới biết mình sắp trực tiếp tham gia vàonhững trận đánh ác liệt mà những chàng trai ra đi từ một thành phố đang yên bình không bao giờ ngờ tới. Huy sợ chiến tranh, ngay từ lúc biết tin này, Huy đã hoang mang, có ý định đào ngũ. Một người có thân thế như anh, có đào ngũ cũng không sao vì đã có người lo cho êm thấm. Nhưng Huy đã không quay lại. Lý do để anh không quay lại lúc đầu chỉ đơn giản bởi sỹ diện của một thằng đàn ông: “v bây giờ người ta cười cho”. Sau đó, anh thêm một lý dođể không quay lại làvì tò mò, vì muốn chứng kiến tận mắt cuộc chiến trên kia xem có giống như miêu tả trong tiểu thuyết. Nhưng càng tiến sâu vào trận địa, Huy càng bị cuốn vào từng trận đánh. Trực tiếp đối mặt với kẻ thù, đối mặt từng giây với cái chết cận kề, động lực thúc giục Huy chiến đấu chính là bản năng sinh tồn của con người “phải tiến để giành giật lấy sự sống còn. Quay lại là chết”. Rồi Huy chứng kiến sự lần lượt hy sinh của rất nhiều đồng đội, lúc này, điều khiến anh không cho phép mình quay lại chính là tình yêu thương, sự gắn bó và trách nhiệm với đồng đội của mình. Trải qua những cung bậc cảm xúc khác nhau: từ sợ hãi, đau đớn, phẫn nộ đến căm thù, để rồi cuối cùng, Huy xông lên chiến đấu quyết liệt, can trường với quân xâm lược bằng tất cả sức mạnh có được từ sự căm thù chúng, bằng danh dự của người lính và lòng yêu nước,tự tôn dân tộc của mình. “Mặt đối mặt với kẻ thù, chính là lúc ý thức dân tộc của con người phát tiết ra mạnh nhất”, đấy chính là sự lý giải của Huy trước hành động quyết tử của Cường:ôm bộc phá đặt tận nơi để phá tan lá cờ mà tên giặc quyết tử xông lên cắm trên vách đá, “lá cờ như một mũi dao nhuốm máu xiên vào bầu trời xám”. Và cũng chính ý thức dân tộc đã thôi thúcHuy và những đồng đội của mình chiến đấu anh dũng, “sẵn sàng hy sinh đến giọt máu cuối cùng với quyết tâm, một tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc cũng không thể để mất”. Huy đã cùng đồng đội của mình sống trọn với lời thề “sống bám đá, chết bám đá thành bất tử”. Có thể nói, tính cách và những diễn biến tâm lý của nhân vật Huy đã được tác giả xây dựng mang những nét đặc trưng tiêu biểu của những chàng trai Hải Phòng và những người lính của cuộc chiến tranh biên giới trong những năm tháng ấy.