Năm nào cũng thế, vào dịp tháng
bẩy, bên cạnh dòng sông Lô có thêm một “dòng sông” mang sắc xanh áo lính chảy
ngược lại từ dưới xuôi lên phía Hà Giang. Đó là “dòng sông” tạo bởi những cựu
chiến binh đã tham gia mặt trận Vị Xuyên những năm 1984 – 1989 cùng nhau trở về
miền kí ức, trở về thắp một nén nhang cho đồng đội, những người ngã xuống giữ
gìn từng tấc đất thiêng liêng của Tổ Quốc.
Sông Lô bây giờ không cuồn
cuộn sắc đỏ phù sa như những năm tôi là người chiến sĩ giữ chốt nơi đây. Ngày
ấy, đằm mình dưới dòng Lô lên là cả thân mình đỏ rực, lấp lánh hạt phù sa phản
chiếu ánh mặt trời. Sông Lô bây giờ không mênh mông, chiều sâu không bí hiểm giống
như hơn ba mươi năm trước. Một vài nhà hàng bên bờ sông bây giờ đang nằm trên
dòng chảy ngày xưa.
Bên bờ sông Lô bây giờ
không còn hàng cây gạo thẳng tắp, trang nghiêm như người lính đứng canh cho
những ngôi mộ liệt sĩ trên những triền đồi được bình yên trong tiếng pháo ì ầm
vọng về từ hướng đường biên.
Đâu rồi hiệu sách nhân dân
ngày xưa, nơi tôi thường xuyên lui tới trong những ngày ở cứ, ngay đầu ngã tư
Nguyễn Trãi – Trần Hưng Đạo, điểm đầu của con đường lên chốt. Lần nào ở hiệu
sách ra, tôi cũng tới đứng trên cầu Yên Biên nhìn hàng tre bên bờ sông Lô và
đắm trong nỗi nhớ nhà. Những cuốn sách tôi mua ngày ấy còn đến bây giờ.
Đâu rồi cửa hàng tuyến lửa,
nơi tôi cùng thằng Thuấn quê Nghệ Tĩnh vào mua hai mươi đồng bánh rán khiến các
chị mậu dịch viên ngạc nhiên, hai anh ăn hết từng đây á. Không tiêu hết tiền sợ
ngày mai không được tiêu nữa, có no cũng phải cố, sợ không có ngày xuống để
được ăn bánh rán.
Căn nhà nhỏ của bưu điện Hà
Giang ngày xưa thì tuyệt nhiên không thể nhận ra ở vị trí nào. Nơi đó, tôi đã
gửi không ít những bức thư không dán tem, thay vào đó là dòng chữ trên phong bì
“điều kiện lính chốt không có tem, nhờ bưu điện chuyển dùm”. Những bức thư là
sợi dây tình cảm của người lính chốt với người thân đã được bưu điện Hà Giang
kết nối đều đặn.
Con đường lên biên bây giờ
rộng thênh. Tôi tìm tiếng sông Lô rì rào ngày xưa mỗi khi qua đây đều nghe thấy.
Bây giờ chỉ thấy tiếng gió ào ào bên ô cửa xe.
Ngã ba Cửa Tử đây, Thung
lũng gọi hồn kia. 812 cùng Coóc Nghè lẩn sau sương mù. Cầu sập, hang Dơi, hang
Làng lò không giống ngày xưa. Không còn bầm dập, tan hoang vì cối pháo cày xới.
Đôi chân thong thả, lần
tìm. Vị trí nào mình đã qua. Người lính năm xưa lạc ngay tại nơi hơn ba mươi
năm trước mình đã phải gồng mình giành giật sự sống từng giây từng phút. Tại?
Tại sông Lô bây giờ không
cuộn cuộn sắc đỏ. Tại suối Thanh Thủy không còn sâu như ngày ấy. Tại con suối
trong xanh chảy trong lòng hang Làng Lò, hai bên là bờ cát không còn. Tiếc nhất
là tầng hai của hang Làng Lò cũng không còn. Tại ….!
Còn cả tại ngày ấy đạn pháo
tơi bời, có kịp định thần quan sát địa hình địa vật quanh mình đâu. Buổi hành
quân hôm ấy, chúng tôi đi trong đêm tối mịt mùng, tay giơ trước mặt không thấy.
Mưa tầm tã. Lần đầu trong đời đi qua đây vậy mà trước mặt, sau lưng mình không
thấy ai, không người dẫn lối. Phía đồi bên, những đường đạn đỏ lừ, vặn mình găm
vào trời đêm. Tiếng nổ chui sâu xuống lòng đất, ùng ục như mắc nghẹn. Khi nghe
thấy tiếng người, dừng lại cũng đúng là nơi tập kết của đơn vị. Tôi gọi đó là
linh giác của người lính dẫn đường.
Cái gì còn, cái gì mất!
Hiệu sách nhân dân không còn nhưng những cuốn sách tôi mua ngày ấy vẫn còn tuy
đã ố vàng, sờn gáy. Hang Làng Lò còn nhưng không “đẹp” như ngày xưa bởi không
còn con suối chảy giữa lòng, không còn tầng hai. Những điểm cao trắng màu đá
không còn vì màu xanh đã trở lại, phủ đầy. Sông Lô không còn cuồn cuộn sắc đỏ
phù sa nhưng bây giờ có thêm “dòng sông” mang sắc xanh áo lính chảy ngược lại
vào dịp tháng bẩy. Trở lại bên đài hương 468 nhìn về 772 và 685 tôi nhẩm đếm
cái còn cái mất. Bên ấy, đồng đội tôi chưa quy tập được về, tuy đã hơn ba mươi
năm nhưng tôi tin vẫn còn! Xương cốt đồng đội tôi hóa thành đá vun dưới chân
cột mốc đường biên. Đá là vĩnh cửu.