Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2019

SÔNG LÔ THÁNG BẨY (Tản văn)



Năm nào cũng thế, vào dịp tháng bẩy, bên cạnh dòng sông Lô có thêm một “dòng sông” mang sắc xanh áo lính chảy ngược lại từ dưới xuôi lên phía Hà Giang. Đó là “dòng sông” tạo bởi những cựu chiến binh đã tham gia mặt trận Vị Xuyên những năm 1984 – 1989 cùng nhau trở về miền kí ức, trở về thắp một nén nhang cho đồng đội, những người ngã xuống giữ gìn từng tấc đất thiêng liêng của Tổ Quốc.
Sông Lô bây giờ không cuồn cuộn sắc đỏ phù sa như những năm tôi là người chiến sĩ giữ chốt nơi đây. Ngày ấy, đằm mình dưới dòng Lô lên là cả thân mình đỏ rực, lấp lánh hạt phù sa phản chiếu ánh mặt trời. Sông Lô bây giờ không mênh mông, chiều sâu không bí hiểm giống như hơn ba mươi năm trước. Một vài nhà hàng bên bờ sông bây giờ đang nằm trên dòng chảy ngày xưa.
Bên bờ sông Lô bây giờ không còn hàng cây gạo thẳng tắp, trang nghiêm như người lính đứng canh cho những ngôi mộ liệt sĩ trên những triền đồi được bình yên trong tiếng pháo ì ầm vọng về từ hướng đường biên.
Đâu rồi hiệu sách nhân dân ngày xưa, nơi tôi thường xuyên lui tới trong những ngày ở cứ, ngay đầu ngã tư Nguyễn Trãi – Trần Hưng Đạo, điểm đầu của con đường lên chốt. Lần nào ở hiệu sách ra, tôi cũng tới đứng trên cầu Yên Biên nhìn hàng tre bên bờ sông Lô và đắm trong nỗi nhớ nhà. Những cuốn sách tôi mua ngày ấy còn đến bây giờ.
Đâu rồi cửa hàng tuyến lửa, nơi tôi cùng thằng Thuấn quê Nghệ Tĩnh vào mua hai mươi đồng bánh rán khiến các chị mậu dịch viên ngạc nhiên, hai anh ăn hết từng đây á. Không tiêu hết tiền sợ ngày mai không được tiêu nữa, có no cũng phải cố, sợ không có ngày xuống để được ăn bánh rán.
Căn nhà nhỏ của bưu điện Hà Giang ngày xưa thì tuyệt nhiên không thể nhận ra ở vị trí nào. Nơi đó, tôi đã gửi không ít những bức thư không dán tem, thay vào đó là dòng chữ trên phong bì “điều kiện lính chốt không có tem, nhờ bưu điện chuyển dùm”. Những bức thư là sợi dây tình cảm của người lính chốt với người thân đã được bưu điện Hà Giang kết nối đều đặn.
Con đường lên biên bây giờ rộng thênh. Tôi tìm tiếng sông Lô rì rào ngày xưa mỗi khi qua đây đều nghe thấy. Bây giờ chỉ thấy tiếng gió ào ào bên ô cửa xe.
Ngã ba Cửa Tử đây, Thung lũng gọi hồn kia. 812 cùng Coóc Nghè lẩn sau sương mù. Cầu sập, hang Dơi, hang Làng lò không giống ngày xưa. Không còn bầm dập, tan hoang vì cối pháo cày xới.
Đôi chân thong thả, lần tìm. Vị trí nào mình đã qua. Người lính năm xưa lạc ngay tại nơi hơn ba mươi năm trước mình đã phải gồng mình giành giật sự sống từng giây từng phút. Tại?
Tại sông Lô bây giờ không cuộn cuộn sắc đỏ. Tại suối Thanh Thủy không còn sâu như ngày ấy. Tại con suối trong xanh chảy trong lòng hang Làng Lò, hai bên là bờ cát không còn. Tiếc nhất là tầng hai của hang Làng Lò cũng không còn. Tại ….!
Còn cả tại ngày ấy đạn pháo tơi bời, có kịp định thần quan sát địa hình địa vật quanh mình đâu. Buổi hành quân hôm ấy, chúng tôi đi trong đêm tối mịt mùng, tay giơ trước mặt không thấy. Mưa tầm tã. Lần đầu trong đời đi qua đây vậy mà trước mặt, sau lưng mình không thấy ai, không người dẫn lối. Phía đồi bên, những đường đạn đỏ lừ, vặn mình găm vào trời đêm. Tiếng nổ chui sâu xuống lòng đất, ùng ục như mắc nghẹn. Khi nghe thấy tiếng người, dừng lại cũng đúng là nơi tập kết của đơn vị. Tôi gọi đó là linh giác của người lính dẫn đường.
Cái gì còn, cái gì mất! Hiệu sách nhân dân không còn nhưng những cuốn sách tôi mua ngày ấy vẫn còn tuy đã ố vàng, sờn gáy. Hang Làng Lò còn nhưng không “đẹp” như ngày xưa bởi không còn con suối chảy giữa lòng, không còn tầng hai. Những điểm cao trắng màu đá không còn vì màu xanh đã trở lại, phủ đầy. Sông Lô không còn cuồn cuộn sắc đỏ phù sa nhưng bây giờ có thêm “dòng sông” mang sắc xanh áo lính chảy ngược lại vào dịp tháng bẩy. Trở lại bên đài hương 468 nhìn về 772 và 685 tôi nhẩm đếm cái còn cái mất. Bên ấy, đồng đội tôi chưa quy tập được về, tuy đã hơn ba mươi năm nhưng tôi tin vẫn còn! Xương cốt đồng đội tôi hóa thành đá vun dưới chân cột mốc đường biên. Đá là vĩnh cửu.